v ḷng t hào dân tc

Thiếu Khanh

Người Nhật lănh 2 trái bom nguyên tử, năm năm lao đao cùng động đất sóng thần, bị người Tàu hù muốn đái trong quần mà vẫn làm được chuyện vĩ đại trên cả vĩ đại. Những con ếch ngồi đáy giếng tự sướng với mấy ngàn năm văn hiến, coi lại ḿnh chút.” (Từ một Email nhân có một clip 10.000 người Nhật hợp xướng Bản giao hưởng số 9 của Beethoven)

Mười ngàn người hợp xường bài nhạc này của Beethoven có nghĩa là có thể có mười triệu người, hoặc toàn thể dân Nhật đều quen thuộc và biết thưởng thức bài nhạc này. Hiển nhiên là tŕnh độ văn hóa của họ thật cao.

Không chỉ một sự kiện này mà vô số sự kiện khác đều chứng tỏ tầm mức văn hoá của họ cao hơn nhiều dân tộc khác. Ngay từ đầu thế kỷ 20, người Nhật đă chúng tỏ sự khôn ngoan, mạnh mẽ và ḷng dũng cảm trong các chiến công đánh bại hai đế quốc Nga và Tàu. Trong Thế chiến II người Nhật tuy thất trận nhưng ḷng dũng cảm phi thường của họ khiến cả thế giới đều thán phục. Sau hai trái bom nguyên tử, thay v́ họ lụn bại, phải xuất khẩu dân ḿnh đi làm cu li hay nô lệ t́nh dục cho người nước khác hay cho phép người nước khác vào xứ ḿnh lột truồng phụ nữ để tuyển “vợ”,  để huênh hoang về số ngoại tệ thu được hàng năm, th́ họ đă đứng dậy, chỉ mất vài ba mươi năm để trở thành cường quốc kinh tế thứ nh́ của thế giới. Sau trận động đất hồi tháng 3 năm ngoái họ đă khiến cả thế giới phải cúi chào và khâm phục tinh thần kỷ luật và ḷng tự trọng của họ. Tất cả những thứ đó đều phát xuất từ một nguồn gốc vững chắc: đó là niềm tự hào dân tộc. Mà niềm tự hào dân tộc không phải bắt nguồn từ không khí, càng không phải là kết quả từ sự quay lưng ngoảnh mặt với lịch sử và văn hóa của dân tộc ḿnh. Trái lại, tự hào dân tộc chính là tự hào về lịch sử và văn hóa muôn đời của dân tộc và đất nước.

Người Nhật ngay từ nhỏ được giáo dục ḷng tự hào về lịch sử oai hùng của họ, về những chiến công hiển hách của họ, tự hào về văn hóa của họ, cái văn hóa đă khiến họ tự mổ bụng mà chết chớ không sống nhục, và tự hào là con cháu của Thái dương thần nữ. Họ tự hào là một trong số rất ít các dân tộc trên thế giới đă đánh bại quân xâm lăng Mông Cổ vào thế kỷ 13, dù đoàn quân này đă bị một trận băo bất ngờ đánh tan tác trên biển trước khi chúng đặt chân được lên đất Phù Tang tam đảo.

Chừng nào niềm tự hào dân tộc c̣n tồn tại trong ḷng người dân một nước th́ quốc gia đó, dân tộc đó mới có thể tồn tại được. Ḷng tự hào dân tộc chính là chỗ dựa tinh thần của dân tộc đó. Mất ḷng tự hào dân tộc, con người ta sẽ dễ dàng làm mọi điều ô nhục mà tự cho là vinh. Mất niềm tự hào dân tộc, ḷng người nhanh chóng tan ră v́ không c̣n giá trị nào để kết dính họ lại với nhau. Họ không thấy đất nước ḿnh, dân tộc ḿnh có điều ǵ hay đáng tự hào để yêu thương và bênh vực.

Niềm tự hào bốn ngàn năm văn hiến của người Việt Nam hoàn toàn không phải là chuyện dốt nát, điên khùng, ngu xuẩn và vô lối. Nền văn hóa VN là một thực tế lịch sử. Càng ngày những nghiên cứu lịch sử và văn hóa càng làm cho nó sáng tỏ thêm ra. Chính niềm tự hào về nền văn hóa đó đă giữ cho nước VN c̣n và dân tộc VN c̣n cho đến nay. Sau hơn một ngàn năm nô lệ Tàu, người VN giành được độc lập dân tộc chính bằng cái vũ khí ḷng tự hào vào lịch sử và văn hóa của ḿnh. Cũng bằng chính ḷng tự hào về lịch sử và văn hóa dân tộc mà dân tộc VN bé nhỏ liên tiếp đánh thắng những kẻ thù phương Bắc hùng mạnh hơn ḿnh gấp nhiều lần để giữ vững nền độc lập quốc gia, trong đó có ba lần đánh bại quân xâm lược Mông Cổ, một lực lượng xâm lăng dữ dằn hung hăn và tàn bạo nhất trong suốt lịch sử nhân loại. Chưa có một dân tộc nào nghi ngờ những sự kiện lịch sử đó. Sao ta lại làm người đầu tiên nghi ngờ lịch sử và văn hóa của chính dân tộc ḿnh? Tại sao niềm tự hào vào bốn ngàn năm văn hóa của dân tộc lại có thể biến người ta thành ếch nhái? Bụt chùa nhà không thiêng bằng bụt Tàu, bụt Đại Hàn, bụt Nhật? Quốc hiệu của Hàn quốc hiện nay là Đại Hàn Dân Quốc (Taehan Minguk), quốc hiệu của Nhật trong Thế chiến thứ II là “Đế Quốc Đại Nhật Bổn “ (Dai Nippon Teikoku  – Great Empire of Japan). Tên của ḥn đảo Anh quốc là Great Britain (tên của cả vương quốc là “The United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland)… Các quốc gia này chẳng hề vĩ đại về mặt diện tích hay dân số để lấy thịt đè người, nhưng họ tự hào “lớn” về lịch sử và văn hóa. Trước kia quốc hiệu của ta là Đại Việt hoặc Đại Nam. Đó đâu phải là chuyện huênh hoang “tự sướng”, mà là niềm tự hào dân tộc hoàn toàn chính đáng.

Nếu một số vua chúa  VN trước đây v́ tối tăm thiển cận làm chậm, thậm chí cản trở, sự phát triển của đất nước, đó là v́ họ ít nhiều mất ḷng tự hào dân tộc, họ không tin vào lịch sử hào hùng của cha ông ḿnh, không tin “nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đă lâu” (B́nh Ngô đại cáo) mà đi tôn thờ các ông Nghiêu Thuấn bên Tàu, coi các anh Tàu hàng ngàn năm trước là Thánh nhân, thánh hiền, coi các tên thái thú Nhâm diên, Tích quang, Sĩ Nhiếp là thầy là ân nhân (phong tước Vương cho Sĩ Nhiếp và các nhà nho ta gọi y là Sĩ Vương!). Chính vào lúc ḷng tự hào dân tộc phai nhạt hoặc không c̣n chỗ trong ḷng người th́ mới sinh ra những tên Tôn thọ Tường, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, và những tên hót theo giọng quan thầy đại Pháp của chúng cho tổ tiên ta là người Gô-loa. Không lẽ những tên đó (tuy xuất thân từ hàng ngũ nho sĩ trí thức) là người chớ không phải là ếnh nhái?

Với người VN, ḷng tự hào dân tộc không hề dành riêng cho tầng lớp trí thức (tiếc thay một số trong tầng lớp trí thức thời trước cũng như bây giờ đă biếm nhẽ lịch sử và văn hóa dân tộc, thậm chí phản bội lại dân tộc). Trước kia tinh thần tự hào dân tộc thấm nhuần trong tâm hồn mọi người dân, nhất là những người dân quê ít tiêm nhiễm văn hóa Tây phương. Chính ḷng tự hào dân tộc này, nằm trong tiềm thức văn hóa, đă bộc lộ trong một h́nh thức “bảo vệ ṇi giống” rất cảm động mà ngày nay chúng ta có thể coi là cực đoan, quá đáng:

Trước năm 1975, ít nhất ở miền Nam VN theo như tôi biết, chỉ có những người phụ nữ VN trót bị “sa chân lỡ bước” hay bị liệt vào hàng bán phấn buôn hương hoặc thuộc loại “bỏ đi” không người đàn ông con trai đứng đắn nào đoái hoài tới th́ mới phải chịu lấy chồng ngoại quốc. Mà đă lấy chồng ngoại quốc, cho dù là lấy một ông hoàng đế Phi Châu, cũng là điều tủi nhục, càng rơi xuống sâu thêm một bậc nữa trong dư luận xă hội VN. Vợ và con gái người Việt của ông hoàng đế Bokassa của Đế quốc Trung Phi (Central African Empire) vào những năm 1960 – 1970 không hề là niềm tự hào của chính đương sự, và cũng không được ai “thán phục” hết, v́ bản thân người phụ nữ ấy (tên là Nguyễn Thị Huệ) là một “me Tây”. (Nếu giới trẻ bây giờ không biết “me Tây me Mỹ” là ǵ th́ hăy hiểu rằng kẻ đó bị xếp hạng ngang hàng đĩ điếm – mà đĩ điếm cho người nước ngoài th́ giá trị nhân cách thấp hơn cả gái giang hồ “nội địa”).

Ngay đến công chúa Huyền Trân đời Trần, do phải thực hiện một sứ mệnh lịch sử, đi làm vợ của một ông vua lân bang để đổi lấy đất đai cho quốc gia, mở rộng giang sơn Đại Việt, công ơn với đất nước lớn lao là vậy mà không gây một cảm hứng tự hào nào, trái lại c̣n để niềm thương tiếc muôn đời không nguôi trong ḷng người Việt: Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng mán thằng mường nó leo!

Kết quả của sự “phân biệt đối xử” trong ư thức bảo vệ ṇi giống này là đa số những người nước ngoài thời đó chỉ có thể lấy được những phụ nữ gần như “dưới đáy xă hội” VN mà thôi. Những phụ nữ “con nhà đàng hoàng”  không bao giờ lấy chồng người nước mgoài để mang sự tủi nhục về cho gia đ́nh và ḍng họ. Cả một vài người phụ nữ có học thức, sống trong môi trường Tây học cởi mở, có t́nh yêu thực sự và kết hôn một cách nghiêm túc với một người chồng nước ngoài có vị trí xă hội cao cũng không là một ngoại lệ trước dư luận VN. Họ đều bị đồng bào ḿnh nh́n với cái nh́n khinh miệt hay dè bỉu; bị liệt chung vào hàng “me Tây, me Mỹ”, và luôn cảm thấy rất nhục nhă. (Bạn trẻ nào chưa biết chuyện này, đọc ở đây để biết ít nhiều tâm sự một người phụ nữ VN có học lấy chồng Mỹ mới hơn bốn mươi năm trước (Le Hoa Wilson – Có tội hay không có tội ?)

Những biến động lịch sử gần đây, nhất là từ sau khi chủ nghĩa cộng sản vào VN tàn phá lịch sử và văn hóa dân tộc, đền miều bị phá dở, chùa chiền làm kho hợp tác xă, đàn Nam Giao ở Huế bị phá bỏ, luân thường đạo lư đảo lộn (vợ chồng tố khổ lẫn nhau, con cái tố cáo nhục mạ cha mẹ; trong hồi kư của ḿnh, cựu ngự tiền văn pḥng của vua Bảo Đại là NKH gọi cựu hoàng đế Bảo Đại, ông chủ cũ của ḿnh, là “hắn”); tượng vua Lư ở HN th́ mặc triều phục nhà Tống bên Tàu; phim lịch sử VN th́ do ngoại bang, kẻ luôn rắp tăm thôn tính ḿnh, dàn dựng thực hiện; học tṛ không c̣n thuộc lịch sử nước ḿnh; phim ảnh trên TV th́ toàn phim lịch sử Tàu và t́nh cảm Hàn Quốc. Người Việt thuộc ḷng lịch sử các triều vua Tàu qua phim ảnh, nhưng có người không biết Trần Hưng Đạo là ai. Thậm chí có người viết lách về lịch sử th́ nói đến một ông vua tên là Lê Trung Hưng, và nói đến chuyện một người có công với vua “được phong chức công thần”. Các tiệm uốn tóc quảng cảo kiểu tóc Hàn Quốc. Các tiệm thời trang, và cả báo chí nữa, nhan nhản phô trương “mốt” thời trang Hàn Quốc, từ quần áo, kiểu tóc, son môi cho đến kiểu chụp h́nh, v.v…

Trước đây để bày tỏ ḷng biết ơn mẹ, người ta mượn h́nh thức “bông hồng cài áo” của người Nhật. Bây giờ giới trẻ VN có người vận động xếp h́nh hàng ngàn con hạc giấy (cũng phong tục và tập quán của Nhật) để bày tỏ niềm hy vọng, mà không tự ḿnh sáng tạo nỗi một h́nh thức nào khác. Vô số thanh niên Hà Nội (thủ đô ngàn năm văn vật!) khóc bù lu bù loa ngoài phố rất thê thảm và thức suốt đêm đốt nến tưởng niệm ca sĩ Mỹ Michael Jackson qua đời. Vô số phụ nữ VN đổ xô đi lấy chồng nước ngoài chỉ qua môi giới của “c̣” và sẵn sàng tới khách sạn xếp hàng cởi truồng cho người nước ngoài ngắm nghía mua làm “vợ”. Không ít kẻ vênh vang dù kết hôn với một anh da đen từ những xứ sở châu Phi. Người giàu có th́ tung tiền mua sắm xe cộ lộng lẫy nghênh ngang, tiêu xài phung phí giữa biển người nghèo đói. Mới đây hàng trăm thiếu nữ Việt chen lấn xô đẩy nhau xỉu lên xỉu xuống trước cổng khách sạn chào đón các ngôi sao ca nhạc Hàn Quốc đến lưu diễn, và sau đó nhiều cô đă tranh nhau hôn hít và liếm chiếc ghế mà ngôi sao này ngồi khiến báo chí và dư luận VN vốn đă quen với nền giáo dục mà cô giáo từng bắt học tṛ liếm ghế của ḿnh cũng phải sững sờ.

Chỉ nói sơ qua một ít thôi. Và có lẽ chừng đó đă đủ làm đau ḷng những người có ḷng với đất nước, nếu cho đến nay vẫn c̣n thờ ơ với hiện trạng này. Chừng đó đă đủ cho thấy một số không nhỏ người VN hiện nay không c̣n ḷng tự hào dân tộc, v́ sau lưng họ là một khoảng trống mông lung về lịch sử và văn hóa. Nay mai phải đánh giặc Tàu họ sẽ biết bám níu vào cái ǵ? Nếu lúc này mà cười cợt biếm nhẽ những người tự hào về lịch sử và văn hóa dân tộc là những con ếch tự sướng, th́ có lẽ đó là một thái độ rất không đúng đắn và nên nghĩ lại, nhất là nói từ một người trí thức.

Nói về bốn ngàn năm văn hiến của đất nước đâu phải là để tự sướng. Trong một ngàn năm độc lập vừa qua, tiền nhân ta đă nói điều đó nhiều lần, đă tự hào về điều đó nhiều lần. Chính lịch sử và tinh thần văn hóa (văn hiến) đó của dân tộc đă giúp người dân Đại Việt biết ḿnh là ai, và giúp phân biệt ta với Tàu: “Sơn hà cương vực đă chia, phong tục bắc nam cũng khác” (B́nh Ngô đại cáo), và có thể dơng dạc lên tiếng “tuyên ngôn”: “Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư”.

Ḷng tự hào dân tộc không làm ai tự sướng hay ngủ quên cả. Nh́n vào người Nhật th́ thấy rơ ḷng tự hào cao ngất của dân tộc họ. Họ có tự sướng hay ngủ quên ǵ đâu. Họ “rất thức” nữa là khác. Trong một email phản hồi nhân thông tin về sự phát hiện chữ Việt cổ, tôi có dịp viết: “Trong lịch sử thế giới, đă có quốc gia nào từng ngủ quên trên sự tự hào về lịch sử hào hùng của dân tộc họ không? Không hề. Trái lại, những giai đoạn suy vong của mỗi quốc gia đều xảy ra trong thời kỳ mà ḷng người phân tán, khi niềm tự hào dân tộc ấy đă bị lung lạc, suy yếu hay không c̣n nữa. Trong hoàn cảnh như thế, Lê Lợi phải mất đến mười năm mới “đẩy” được đám quân Minh xâm lăng về nước, (sau cuộc kháng chiến dai dẳng làm cho chúng mỏi ṃn mà ta không có một trận đại thắng nào lừng lẫy tầm cỡ “Bạch Đằng”), trong khi trước đó, nhà Trần với hào khí Đông A chỉ cần một thời gian rất ngắn để ba lần đánh bại ba cuộc xâm lăng của lực lượng xâm lược mạnh nhất, dữ dằn nhất, đáng sợ nhất của cả nhân loại trong mọi thời đại, với các chiến thắng lừng lẫy. ” (có thể đọc toàn bộ bài viết / email này ở đây: http://www.vietthuc.org/2012/02/23/35807/)

Trước năm 1975, trong cuốn sách Người Việt Cao Quư, nhà văn Vũ Hạnh, khi so sánh với Vạn Lư Trường Thành của Trung Quốc, Kim Tự Tháp của Ai Cập, Đế Thiên Đế Thích của Căm Bốt, vân vân, đă thấy rằng Việt Nam không có một công tŕnh nào đủ lớn đáng để tự hào cả.

Thật nản ḷng, phải không? Không có ǵ để tự hào cả? Nh́n vào các thành tích văn minh văn hóa lừng lẫy của người rồi nh́n lại ḿnh không có ǵ cả, hoặc chỉ thấy chiến tranh và đổ nát, có đáng nản ḷng không? Nhưng Vũ Hạnh đă nhận xét rằng công tŕnh vĩ đại của dân tộc VN chính là dải đất  h́nh chữ S từ Ải Nam Quan đền Mũi Cà Mau này. Đây là công tŕnh lớn lao mà tất cả các thế hệ cha ông ta luôn phấn đấu đổ nhiều mồ hôi nước mắt và cả xương máu để xây dựng, mở rộng và bảo vệ, suốt lịch sử không lúc nào ngơi nghỉ. Vũ Hạnh là một anh Việt Cộng, tức là một kẻ theo chủ thuyết cộng sản, chủ trương tất cả v́ tính giai cấp vô sản quốc tế mà không thèm đếm xỉa đến lịch sử và văn hóa của tổ quốc ḿnh, mà đă nhận ra một điều đáng tự hào của dân tộc như thế. Tại sao một người trí thức không cộng sản lại biếm nhẽ những người tự hào với tinh thần dân tộc, coi họ là những con ếch?

Ngay cả khi buộc phải ḷn trôn giữa chợ, Hàn Hín vẫn tin vào tài năng và giá trị của ḿnh. Ông ta biết ḿnh có các giá trị đó để tin, để tự hào và nhờ đó đứng vững trong nghịch cảnh. Nhật Bản trong Thế chiến II, bị dội hai trái bom nguyên tử, phải chịu đầu hàng đối phương vô điều kiện, nhưng ḷng tự hào dân tộc của họ cao đến nỗi giúp họ tự tin và đường hoàng bắt tay với kẻ thù để vực dậy và xây dựng đất nước chớ không chịu sút kém. Hàn Quốc từng bị Nhật xâm lăng, nhưng niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ của họ giúp họ khôi phục độc lập và phát triển đất nước rực rỡ. Trong khi đó, không một người ăn mày nào mà chúng ta từng biết tự nghĩ ḿnh có một giá trị ǵ để tự hào và tự trọng. Biết ḿnh có điều ǵ để tự hào tự trọng th́ họ đâu có đi ăn xin. Có ḷng tự hào và tự trọng th́ đâu có ngửa tay ca bài ca con cá nó sống v́ nước, chúng tôi độc lập tự do hạnh phúc gần bốn mươi năm mà vẫn c̣n nghèo xin ông đi qua bà đi lại rủ ḷng thương giúp đỡ. Không biết và không tôn trọng lịch sử văn hóa của đất nước dân tộc ḿnh tức là ta không tự trọng ḿnh; không tự biết ḿnh là con nhà thế gia chớ không phải thứ đầu đường xó chợ nay mặc váy kiểu Mỹ mai mặc áo theo “mốt” Đại Hàn, ngày kia theo “mốt” thời trang đuôi sam Măn Thanh, khóc lóc lu loa v́ một thằng bá vơ nào đó chết bên Tây hay bên Tàu.  Không tự trọng ḿnh th́ ta sẽ không thể bằng người Nhật. Không những ta đang không bằng người Nhật mà ta cũng không bằng cả người Đại Hàn. Đất nước họ chẳng lớn lao hơn ta, nhưng họ đều có ḷng tự hào dân tộc rất cao, mà ta th́ đă tiêu hao ṃn mỏi. Tại sao ta lại biếm nhẽ bốn ngàn năm lịch sử của ḿnh?

Người trí thức có trách nhiệm phải nói cho mọi người biết: “Anh là con nhà gia giáo có lịch sử và văn hóa, chớ không phải loại cha căng chú kiết. Anh đă chiến đấu hàng ngàn năm để giữ vững tự do và độc lập. Anh có quyền và phải được tự do và độc lập. Không cần một chữ vàng chữ bạc nào của ai cả.” Nếu không nói được như thế, mà lại biếm nhẽ họ, coi họ là ếch nhái, th́ … thôi.

Chớ sao! Nói ǵ với kẻ chưa đánh đă hàng! Thằng Tàu muốn đánh VN, chuyện đó ai cũng biết. Anh cho rằng ta chỉ là những con ếnh tự sướng chớ thực ra ta không có ǵ cả, thôi thua nó cho rồi. Phải vậy không?

Thiếu Khanh