Trang Thơ
Phạm Ngọc Lư
Quá giang tự
vịnh
Sông
Hàn, mệt lắm, sông Hàn !
Mai
qua chiều lại trưa sang tối về
Đời
mòn lăn chậm bánh xe
Áo
cơm bải hoải nặng nề lăn
theo
Dài
chi nhịp nhịp giang kiều
Tha
hồ gió ngạo mưa kiêu rách lòng
Đành
như hàn sĩ qua sông
Đành
như khuê nữ chậm chồng quá giang
Trông
ra trời nước mơ màng
Giật
mình trẩy khúc gian nan qua cầu
Đoạn
trường lăn bánh xe đau
Sông
Hàn lạnh sông Hàn sâu… im lìm
Sông
nào nước xoáy trong tim ?
2 – 1997
*
Ngập ngừng trông
núi
Ở
lâu bên núi Sơn Trà
Trầm
ngâm núi, lững lờ ta, u trầm
Bấm
tay Tuất Hợi Tý… Dần
Năm
năm ngồi ngắm phong vân khứ hồi
Nhiều
khi thấm gió ngàn khơi
Tung
hồn lên núi rong chơi tha hồ
Đôi
khi nhìn sóng lô nhô
Lòng
đang quang tạnh bất ngờ nổi mây
Đôi
khi rót chén rượu đầy
Ngập
ngừng trông núi… ô hay núi nhìn
Năm
năm ba nổi bảy chìm
Ta
mơ làm núi đứng im yên hàn
Trầm
ngâm, vòi või, hiên ngang
Núi
ơi! hồn núi miên man nghĩ gì ?
*
Phù dung
Phải
em là khách chiêm bao ?
Từ đêm thiên cổ lạc vào đêm nay
Xiêm
vàng áo giấy lay bay
Mơn
man nét khói đường mây đa tình
Em từ quê quán Vô Minh
Thoát thai cát bụi tái sinh đào
hồng
Khuya nay mở quán Phù Dung
Mời ta khai vị sắc lòng
phấn hương
Đêm xưa tao ngộ Tầm
Dương
Nhận ra dòng dõi đoạn
trường với nhau
Khóc cười chung một bể dâu
Tài hoa đồng hội khổ
đau đồng thuyền
Phong trần xé áo rách xiêm
Ba đào đắm mộng truân
chuyên hớp hồn
Ta chơi vơi giữa sinh tồn
Em chưa thoát nợ phấn son
kiếp nào
Đêm nay rượu gởi tình
trao
Đề thơ lên cửa chiêm bao,
chạnh lòng…
Lạnh dần một quán hư
không
Khép dần một đóa phù dung vô
hình
Em chìm xuống đáy Vô Minh
Bỏ ta trên bến nhân sinh bàng hoàng
Sương rơi, đêm cạn,
quán tàn
Cô đơn vòi või trần gian ta
ngồi
Chung quanh vẫn vậy: cuộc
đời !
1998
– 2003
*
Trở về phá Tam Giang
Phá Tam Giang phá Tam Giang !
Gió hiu hiu sóng gợn mơ màng
Trời vẫn xanh màu xanh cố
cựu
Mây trầm ngâm khói nước miên
man
Mười năm dong ruổi mòn
đất khách
Về cố hương chiều
xế nắng tàn
Bỏ nón, tháo giày, xăn tay áo
Rửa
phong trần thẹn với Tam Giang
Kè
đá rêu xưa ngâm bến cũ
Còn
người đi người đợi đò ngang
Còn
xóm chài lưa thưa mành lưới
Còn
nhấp nhô thuyền thúng thuyền nan
Không
còn người chèo đò năm xưa tóc bạc
Cô
lái đò chiều nay trán nhăn
Trừng
mắt nhìn ta trách móc :
“Mười
mấy năm chú mới về làng !”
Mười
mấy năm ? Phải rồi, ta quên mất !
Cái thuở áo cơm trở mặt phũ phàng
Điêu
đứng năm Mùi ra đi năm Tuất
Ra
đi mưu cầu y thực
Trở
về nặng trĩu gian nan
Nhớ
buổi ra đi thân tình đưa tiễn
Vợ
xếp câu thơ chị gói khúc đàn
Đệ
tử mươi người tung hô dâng
rượu
Thôn
nữ vài em gởi gắm gió trăng
Mẹ
tóc trắng nhìn theo lặng lẽ
Con
tóc xanh hai đứa dùng dằng
Ta
mím môi, chỉ Tam Giang thề hẹn
Không
là Tương Như mà khí khái dâng tràn
Bước
xuồng thuyền nhìn trời cao dõng dạc
Gõ
mạn thuyền ngâm khúc Hành
phương
Hành
phương
Mười mấy năm tấm cám thau vàng
Thấp
cao danh lợi
Chí
khí dở dang
Tơi
tả bao phen buồn thân thế
Đắng
cay mấy bận khiếp hồng nhan
Mưa
miền
Trông
mây thấp thỏm, nghe gió bàng hoàng
Mười
mấy mùa trôi qua không nhớ
Quá
đỗi mưa đau
Quá
nhiều nắng khổ
Lẽ
nào Trời bỏ ta chăng ?
Đọc
thơ Nguyễn Bính chua tâm sự
Đọc
lại thơ mình thẹn gió trăng
Chén
rượu quê người sao mà bạc
Ân tình
đất khách lắm đa đoan
Chiều
nay về… bên phá Tam Giang
Phía
bờ Đông vẫn xóm vẫn làng
Mười
mấy năm còn ai trông ngóng
Mười
mấy năm mỏi mòn ước vọng
Mẹ
có thương con gió bụi lầm than ?
Chị có xót em một đời thất chí ?
Em không buồn ta ?
Sao lòng ta phai nhạt đá vàng !
Phá Tam Giang, ôi phá Tam Giang !
Gió hiu hiu sóng gợn mơ màng
Nước
vẫn mặn mòi mây quen thuộc
Sao
lòng ta sóng gió ly tan
Xin
xấu hổ với lời thề ngày trước
“Không
công danh bất phục hoàn !”
Xin
biết ơn cô lái đò nhân hậu
Còn
thương ta mời ta quá giang
Thôi
rửa hết phong trần nơi bến nước
Để
trở về đứng khóc dưới hương quan !
1996
*
Cố Lý Hành
Chiều
chết đuối trên sông ngờm ngợp
Nước
đua chen đớp bọt nắng tàn
Đò
qua sông đìu hiu bến đợi
Buồn
rút lên bờ cây khai quang
Mây
đổ xù lông như chó ốm
Trời
bôi nhòe mặt ngóng đêm sang
Thôn
ổ tiêu sơ gầy khói bếp
Đồng
không mốc thếch lạnh tro tàn
Có
biết ta về không cố lý ?
Mười năm chưa lạ mặt xóm làng
Sao
phên giậu nghiêng đầu câm nín
Rơm
rạ làm thinh chẳng hỏi han
Cổng
khép rào vây vườn cỏ dại
Tường
xiêu mái rách bóng nhà hoang
Ngõ
vắng bàn chân như hụt đất
Tre
già đang kể chuyện chôn măng
Nương
rẫy đang phơi lòng dâu bể
Nói
làm sao hết nỗi bàng hoàng ?
Khóc
làm sao vừa lòng cố lý ?
Phải
đây là cố lý ta chăng ?
Đâu bóng mẹ già sau khung cửa
Và những người em mặt
trái soan
Đâu bóng chị hiền như hoa
cỏ
Bên luống cà xanh liếp cải
vàng !
Đất đá thở ra mùi u uất
Bốn bề hun hút rợn màu tang
Ai chết quanh đây mà cú rúc
Mà cơn gió lạnh réo hồn oan
Ai
trong muôn dặm không về nữa
Cố
lý mười năm mộng bẽ bàng
Cố
lý mười năm ngày trở lại
Như
ngày Lưu Nguyễn xuống trần gian !
1972
*
Biên Cương Hành
Biên
cương biên cương chào biên cương
Chào
núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu
đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi
chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm,
gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi
lấp rừng già bạt núi non
Mùa
khô tới theo chân thù địch
Ta
về theo cho rậm chiến
trường
Chiến
trường ném binh như vãi đậu
Đoàn
quân ma bay khắp bốn phương
Lớp
lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi
mang cao điểm ngút oan hờn
Đá
mang dáng dấp hình chinh phụ
Trơ
vơ chóp núi đứng bồng con
Khu
chiến ngày tràn lan lửa dậy
Đá
Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên
cương biên cương đi biền biệt
Chưa
hết thanh xuân đã cùng đường
Trông
núi có khi lầm bóng vợ
Ôm
đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá chi ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa
trường
Sa trường anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta biết hẹn gì
hơn?
Đây biên cương, ghê thay biên cương
!
Núi tiếp rừng, rừng
tiếp khe truông
Hãi hùng chưa trời hoang mây
rậm
Mùa mưa về báo hiệu tai
ương
Quân len lỏi dưới tàn lá
dữ
Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
Sát khi đằng đằng
rừng dựng tóc
Ma thiêng còn ngán lũ cô hồn
Cô hồn một lũ nơi quan
tái
Có khi đã hoá thành thú muông
Cô hồn một lũ nơi
đất trích
Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
Đỡ thèm môi mắt gái buôn
hương
Đây biên cương, ghê thay biên
cương !
Tử khí bốc lên dày như
sương
Đá chảy mồ hôi rừng
ứa máu
Rừng núi ơi ta đến chia
buồn
Buồn quá giả làm con
vượn hú
Nào ngờ ta con thú bị
thương
Chiều hôm bắc tay làm loa gọi
Gọi ai nơi viễn xứ tha
phương ?
Gọi ai giữa sơn cùng
thủy tận ?
Ai người thiên cổ tiếc
máu xương ?
Em đâu, quê nhà chong mắt
đợi
Hồn theo mây trắng ra biên
cương
Thôi em, yêu chi ta thêm tội
Vô duyên xui rơi lược vỡ
gương
Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
Hoặc ngày ta nhắm mắt tay
buông
Thôi em, chớ liều thân cô phụ
Chiến trường nay lắm
nỗi đoạn trường
Nơi nơi lạnh trăm dòng
sông Dịch
Kinh Kha đời nay cả vạn
muôn
Há một mình ta xuôi biên tái
“Nhất
khứ bất phục phản” là thường !
Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày về: thân cạn máu khô
xương
Ngày
về: hôn lễ hay tang lễ
Hề
chi ! buổi chinh
chiến tang thương
Hề
chi ! kiếp cây
rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.
(tháng
5.1972)
*
Dùng Dằng
Nước Mây
Tặng Văn Công Hòang
Năm xưa vườn Thúy đang
xanh
Rượu đào pha tiếng đàn tranh thêm hồng
Pha thêm tiếng nhị não nùng
Một trời xuân nguyệt thanh phong ngà ngà
Không về Nam Phước thu qua
Để Thu Bồn chở trăng ra viễn trùng
Lại về cuối tiết trọng đông
Duy Xuyên mỹ tửu ấm lòng cố nhân
Ngồi nghe lưu thủy hành vân
Mây trôi nước chảy…bâng khuâng nhớ nhà
Nghiêng tai : thập lục ngân nga
Ngẩng đầu đụng tiếng tì bà óan,
thương
Rơi theo từng giọt đàn buồn
Lòng như thấm lệ Tầm Dương u sầu
Ngỡ mình Tư Mã Giang Châu
Rưng rưng cảm xúc cúi đầu thẩm âm
Chơi vơi cung bổng bậc trầm
Hồn xao xuyến với nguyệt cầm nhớ trăng
Ngỡ hồn trôi giữa ngàn năm
Luyến lưu thanh điệu dùng dằng nước mây
Xin mời kim cổ so dây
Tri âm mượn khúc thơ này… hòa âm
*
Cuốc Đất Mà
Chơi
tặng Lê
văn Trung & Hạ Đình Thao
Giao vườn
nộp ruộng lìa quê
Ra đi như thể trời thuê đi đày
Thân không dung nổi đất này
Lan man chi chuyện khói mây phương trời
Mấy năn đời đổi - đổi đời
Râu cùn mày cụt tả tơi chí tàn
Thú cầm biết giữ ổ hang
Cớ sao ta phải bỏ làng mất quê ?
Bao năm bấm bụng không về
Vườn xưa ruộng cũ cứ nghe mọc nhà
Người xưa “thiên hạ vi gi”
Nay thiên hạ bỏ mặc ta lưu đày
Ngâm câu vận khứ… thời lai…
Nghe đau lưỡi chuốc đang mài mồ hôi
Quê người cuốc đất mà chơi
Cơ hồ đang cuốc ruộng trời trồng mây !
*
Đề tranh xuân
nữ
Mùa
xuân đang nô nức xanh
Hân
hoan thảo mộc vẽ tranh hai bờ
Mượt
mà hồn hậu ngây thơ
Em
nằm trên cỏ nhởn nhơ sắc màu
Cỏ và em vỗ về nhau
Con sông mộc mạc ngẩng
đầu nhìn lên
Em mềm như lá cỏ mềm
Như tà nắng lụa đang êm
ái nằm
Vàng mơ tơ sợi chiều
giăng
Bóng chiều đa cảm dùng
dằng, không dưng …
Em nằm phơi phới với
xuân
Mùi hương phương thảo
lót lưng mịn màng
Hai bờ cây cỏ hân hoan
Con sông ngây dại rộn ràng vẽ
tranh
Vẽ em vẽ cỏ vẽ mình
Thiên nhiên như mộng đa tình
chiều xuân
*
Tuy Hòa tái ngộ
tặng Trần Huiền Ân, Võ
Tấn Khanh,
Mang Viên Long và Nguyễn Lệ Uyên
Vẫn
người xưa vẫn trăng nầy
Rượu
nguyên tiêu cứ rót đầy thâu đêm
Thâm
tình còn mấy anh em
Và
người rót rượu tay mềm
như trăng
Ba
mươi năm… ba mươi năm
Vẫn
xanh đôi mắt đăm đăm một thời
Nâng
cao bao chén rượu mời
Chén
buồn hắt xuống ngàn khơi muôn trùng
Chén
vui xin cụng môi hồng
Chén
mừng chén tủi tạ lòng Trước Sau
Kể
gì sáng bể chiều dâu
Tấc-lòng-thiên-cổ
bạc đầu chưa yên
Xưa
ta đồng hội hoa niên
Ba
mươi năm vẫn đồng thuyền, ô hay !
Vẫn
tình xưa vẫn đất nầy
Kể
chi vật đổi người thay, thắt lòng
Cụng
đầu một chén uống chung
Ba
trăm năm nữa tương phùng phương nao ?
*
Đêm Nước
Lũ
Điên
tiết đất trời mưa mưa mưa
Sông
nghênh ngang nước nhảy lên bờ
Đêm
ngồi canh nước chun qua cửa
Sờ
soạng chân giường coi ướt khô
Ngó
trước nhìn sau nghe động tĩnh
Lửa
đèn run, bóng nước thập thò
Mưa
xóc ngang hông nhà thót bụng
Nhổm
người quýnh quáng giả vờ ho
Bất
thần ngứa miệng ho sù sụ
Liếp
cửa rêm mình cọt kẹt kêu
Gió
tru tréo như bầy ma đói
Mưa
vỡ mồ ác qủy hò reo
Đêm
chìm lĩm đen ngòm địa ngục
Bỗng
thấy đời ta nổi lều bều
Giữa
trùng trùng âm binh thủy tặc
Đôi
mắt nào ướt sũng nhìn theo…
Quê làng, 10 – 1977
*
Túy Hoài
Uống
cạn mươi ly
Nhớ
quên rồi cũng hết
Trời
buổi chiều bỗng dưng mù mịt
Đầu
ta như khói bốc miên man
Lòng
lênh đênh lạnh buốt sông Hàn
Cơn
say nào cao vút Hải Vân
Ta
bay vèo… mây gió lâng lâng
Xôn
xao trời thu tung tăng hoàng diệp
Mênh
mông ngàn thu rụng rời thương
tiếc
Ô hô !
Ngươi có – ta
không
Ta
còn – ngươi mất
Thoắt
bóng thoắt hình
Chập
chờn hư thực
Chưa
say, ném hồ trường qua biển
Bắc
Yên
ba tan tành im bặt
Hương
quan gờn gợn mù tăm
Say
rồi, tung chén rượu xuống
trời
Trời
Giang
hồ lênh láng sóng lên men
Say
rồi,
Nhớ
tuổi quên tên
Xót
lòng trông cây nhớ cội
Phải
ngươi ba chìm bảy nổi
Bắt
ta mười kiếp long đong
Mây
có – gió không
Tình
câm – thơ điếc
Giai
nhân còn mà anh hùng hết
Chưa
mùa đông sao tóc xanh rơi bạch tuyết
Ngũ
thập rồi tay trắng xóa bạch
vân
Ô hô !
Thiên địa vô cùng
Uống
say mà khóc Đặng Dung - Thuật
hoài !
Khóc
rồi,
Đập
nát cơn say
Hốt
nhiên bừng bừng hào khí
Vươn
vai nhập thân hào sĩ
Dậm
chân nổi gió Đông – Đoài
Cởi
chim hồng nhạn mà bay
Theo
trăng qua Đằng Vương các
Thâu
lại hồ trường nơi biển Bắc
Nhặt
lên chén rượu cuối trời
Chơi
hết tháng ngày chưa tương đắc
Tung
hê cơm áo bất phùng thời
Uống
nữa ngươi ơi
Một
ngàn ly một lần xin cạn
Ấm
lạnh sông Hàn ơi !
Chỉ
còn ngươi…
Chỉ
còn ngươi soi bóng ta thôi
tháng 10 – 1994
( trong ĐAN TÂM thi tập )
*
Thuyền Quyên
Em
từ tình sử bước ra
Y
trang yểu điệu đôi tà mộng bay…
Chờ
nhau gác gió lầu mây
Nghìn
đêm giọt nến rơi đầy trang thơ
Nghìn
đêm sông lạnh trăng mờ
Trương
Chi bạc tóc bên bờ Tương giang
Chiều
nao nhất kiến hồng nhan
Chiều
nay xác bướm rơi vàng mộ hoa
Áo
xưa mộng mị đôi tà
Đành
thôi xếp lại Nam Kha gối đầu
Mơ
gì phong các vân lâu
Mà theo chim mộng tìm nhau cuối trời
Đêm
nay nước chở thuyền trôi
Thuyền
quyên em chở tình tôi xuôi dòng
Ngày
mai lặng lẽ hư không
Còn
chăng đôi hạt bụi hồng… thơ bay
4 – 1996
*
Ảo Mộng
Mộng Ảo
Ân tình
mấy phen chưa khiếp
Sao
đời còn lụy khói sương
Chưa
đắm ba đào nhan sắc
Sao
lòng rực rỡ tai ương !
Tô
chi màu son huyết dụ
Cười
lên rớm máu nỗi buồn
Vẽ
chi đôi quầng mắt biếc
Nhìn
lên thăm thẳm trùng dương
Tóc
xanh không xanh màu biển
Mà
đa tình gió ngàn phương
Xiêm
y phất phơ tà mộng
Mơn
man bờ cõi hoang đường
Em về bên ta
lãng đãng
Đêm nao thao thức mùi
hương
Hoa quỳnh băn khoăn
chưa nở
Trăng xuân mọc chậm
không tròn
Chim khuya mơ màng quên ngủ
Bướm khuya vỗ cánh
chập chờn
Em về bên ta mờ
tỏ
Môi khô huyết dụ mù son
Mắt xanh ngàn trùng mây gió
Liêu trai mái tóc mù
sương
Thực hư bàn tay khói lượn
Mời ta chén rượu
quỳnh tương
Trao ta nỗi lòng cô phụ
Khóc ta tiếng khóc
đoạn trường
Ai xui thuyền quyên gặp
gỡ
Xót xa quân tử cùng
đường
Ta về căm hờn
số mệnh
Bay lên tra hỏi Càn Khôn
Rơi xuống vực sâu
vô vọng
Tan ra dòng nước sông
Tương
Nhấp nhô ba đào nhan
sắc
Dìm ta xuống đáy
đau thương
Đêm nay em không về
nữa
Ân tình trao gió viễn
phương
Đã đành lòng em sấp
ngửa
Còn bày gieo quẻ âm
dương
Quẻ rằng, “bèo mây tan
hợp”
Cắn môi rớm máu
nỗi buồn
Chớp mắt tan tành
ảo mộng
Lòng ta lộng lẫy tai
ương !
Mai kia đất trời
hiu quạnh
Thơ ta nằm chết
trần truồng
Hoa quỳnh không bao giờ
nở
Vầng trăng vàng
vọt héo mòn
Mai kia ngàn thu tái ngộ
Khóc cười kể
chuyện khói sương
Chút tình phù du một
thuở
Chép thành tình sử ngàn
chương…
1996
Mộng Kiến Nhân Ngư
Không ngừng ngọn gió mơn man
Biển còn ngái ngủ sóng đang
trở mình
Cát mềm lấm tấm lân tinh
Nằm thon thả một thân hình
nhân ngư
Gió vờn, cát nựng, sóng ru
Đôi chân ảo mộng từ
từ mọc ra
Ngồi lên : lộng lẫy một
tòa
Đứng lên : rực rỡ
đài hoa Địa Đàng
Vươn mình nở hết dung
nhan
Nguyên khai một đóa Hồng Hoang
rất hồng
Ngước lên thăm thẳm trùng
trùng
Xòe ra đôi cánh hư không bay vèo
Ào ào sóng gió hò reo
Hồn tôi há hốc trông theo
thẫn thờ
Hết nhìn mộng - thực
lửng lơ
Ngỡ ngàng mơ tỉnh - tỉnh
mơ lại nhìn
Tinh sương biển lặng mây
chìm
Bóng ai tĩnh mịch nằm im
phơi mình
Một màu hoa một thân hình
Phải nàng thiếu phụ đa
tình quen tôi ?
Một nhân ngư giữa biển
đời
Đôi chân ảo mộng gọi
mời chiêm bao
Gió mềm, cát mịn, sóng xao
Ngân nga tiếng hát thuở nào
hồng hoang
Biển trời ơi ! chớ lay
nàng
Kẻo đài hoa rụng… hồng
nhan hết hồng
*
Thuyền Quyên Tận
Nhìn tờ lịch cũ nao nao
Ngày nầy ? tháng nọ ? năm nào
em đi
Nghìn trùng chôn một biệt ly
Tấc lòng hoài niệm vẫn nghi
ngút chờ
Cầm lên tấm ảnh, ngẩn
ngơ
Mắt kia môi nọ bây giờ
về đâu ?
Giờ em đổi sắc thay màu
Khói mây ta mượn cơ cầu
hình dung
Mấy năm lòng tưởng yên
lòng
Ngờ đâu nấm mộ Đào
Hồng còn tươi !
Đêm qua xuống gió đông rồi
Tình em trắng tuyết chôn trời
viễn phương
Sóng gào chưa nát trùng dương
Đứt lòng chưa hết
đoạn trường câu thơ
Tình ơi ! oan uổng trăm
tờ
Cháy đi… cháy đến bao giờ
tịch không
Cuốn theo má phấn môi hồng
Tàn rơi tro rụng muôn trùng…
đành thôi !
1998
- 2003
*
Vọng Tri Âm
Ngọn bút ba mươi năm
Trầm tư u mặc
Văn chương không tri âm
Chữ nghĩa cùn nhan sắc
Muốn học người xưa
Dốc một hồ trường
rót về đông tây nam bắc
Đâu giai nhân mà mơ tái
đắc
Đâu tâm giao mà trao tình bút mực ?
Gieo một nỗi lòng
Bốn biển thinh không
Mây trói chân trời
Gió dằn mặt đất
Mượn đỉnh núi cao trú
hồn kiêu bạc
Ấp mộng ba ngàn đêm
Thơ hóa thân hoàng hạc
Vỗ cánh xuống trời Nam
Bay qua Lữ Kiều lâu
Bay về Nguyên Minh các
Ôi, con chim trần ai lưu lạc
Bâng khuâng đậu xuống
đất lành !
Ly tán hơn vạn ngày
Mừng một giờ tái
đắc
Dâu bể bao nhiêu năm
Vẫn uy nghi những tấm lòng son
sắt
Ngọn bút từ nay không cô
độc
Văn chương một thuở
chung tình
Chiều hôm cố xứ
Lên núi một mình
Đọc lại đan tâm
Nhờ núi ký âm
Trông vời thương hải
Đọc
tam-thập-niên-tràng-thiên-trường-đoạn
Rót một hồ trường không
bao giờ cạn
Kết tinh từ ân sủng văn chương
Lòng bỗng thơm ngọn gió
trầm hương…
2004
*
Ngày Xưa An Cựu
Mười năm biền biệt
cách sông
Chút tình nắng- đục- mưa-
trong cũ càng
Mười năm ngậm đá câm
vàng
Chút tình cố cựu cứ han
gỉ dần
Không về nữa một cố
nhân
Không còn nữa một thanh xuân
nồng nàn
Tội bài thơ viết dở dang
Bởi con sông hẹp bắt ngang
lắm cầu
Mười năm vòi või trông nhau
Nhìn mưa ngó nắng nhớ màu
đục trong
Hẹn về mang guốc ra sông
Hẹn về mang nón chao lòng
nước xưa
Hẹn về viết tiếp bài
thơ
ẩn mùi hoa sứ ỡm ờ... nào
hay
Từng năm phai tháng nhạt ngày
Trông về... ràn rụa bóng mây bên
đèo
Trông về... nắng hắt mưa
hiu
Mắt ai thăm thẳm... đáy
chiều xa xưa...
10/2005
*
Biệt Cố Nhân
Người cũ ba năm lòng
ẩm mốc
Tình cũ mười năm như
nhang thơm
Chôn đóa hoa ngàn năm không mộ
Không ngờ không táng một làn
hương
Nghi ngút khói, rơi rơi tàn
mộng
Nghìn đêm người cũ
đốt tình xưa
Nát mùi hương từ đêm thu
rụng
Đau cánh phù hoa nở trái mùa
Rêu vẫn đơm hoa trên bia
mộ
Không thuyền quyên dưới
mộ phong vân
Người cũ thắp bài
thơ tình cũ
Bái biệt nghìn thu không cố nhân !
9 – 2007
*
Đề Thơ Trước Mộ Thanh Xuân
Có người
bảo ta ngu
Không thèm ăn thóc nhà Chu
Bỏ về quê ăn cỏ
Có kẻ khoái ta ương gàn càn
rỡ
Dám chê rượu nhà Tần
Thứ rượu cung đình
của phường hiển vinh quý tộc
Tuổi mới ba mươi
Có ai ngờ ta uống hèn nuốt
nhục
Lấy giẻ rách che tai
Cắm chông gai rào miệng
Nhặt nhạnh gia tư ít
đồ tế nhuyễn
Trèo lên xe trâu
Lui về quê kiểng
Mài răng gặm nhấm cái thanh
bần
Lượm lặt nứa tre che
căn lều nhỏ
Phên
cửa phong phanh suốt ngày no gió
Người
quen tâng bốc gọi mao lư
Kẻ
nôm na kêu đích danh nhà cỏ
Chẳng
hay ho gì cỏ với mao
Thời
bất lợi voi đành làm chó
Phong
tống thời lai giun đất hóa rồng
Góp
nhặt chợ trời đầy hai túi chữ
Túi
đựng thánh hiền kê đầu giường ngủ
Túi
đựng tầm phào
Lộn
tùng phèo phàm phu tục tử
Thoải
mái gác chân
Lựa
trong gia tài một mớ phong vân
Đem
ra chợ chiều rêu rao thanh sắc
Tội
cô láng giềng thật thà nháy mắt
Khổ
chị góa chồng mời mọc môn khoai
Tìm
trong gia phong mấy lời răn dạy
Hiểu
đâu nhất thời
Đâu
là vạn đại
Than
ôi !
Cái khôn mới hôm qua
Hôm
nay bỗng trở thành cái dại
Quay
lưng với đời ư ?
Dòng đời cuồn cuộn
Biển
đời lợn cợn
Bảy
đục ba trong
Quay
mặt với người ư ?
Mặt người sắc nhọn
Biển
người sao mà ghê rợn
Đua
chen hôi lợi bòn danh
Đâu
dám ví mình với Đào Uyên Minh (*)
Tụng
Quy khứ lai từ
Cứ
ngỡ chính mình đang u hoài cảm thán
Ngộ dĩ vãng chi bất
khả gián
Tri lai dã chi khả truy (**)
Hề !
Mời quá khứ nâng ly
Hề !
Mời vị lai so đũa
Ta
như kẻ lỡ thời
Giỏi
giang gì mà tri với ngộ
Chỉ
biết hôm nay giày rơm áo cỏ
Vinh
danh quân tử cố cùng ! (***)
*
Ba
mươi năm bổng bồng bông…
Ngơ
ngác quay về gia hương cố thổ
Lá tre lợp dày mái cỏ
Bão giông quằn quại mao lư
Bao nhiêu năm ta vẫn còn ngu
Sáu mươi tuổi chắc gì
không càn rỡ
Dẫu đọc hết một
trăm bồ chữ
Vẫn thua đau một
đứa lòn trôn
Đứng giữa chợ
chiều sao nhớ chị khoai môn
Bỗng thương năm xưa
cô láng giềng thuần phác
Lướt thướt mây trôi
Dập dờn tóc bạc
Một mình ta !
Như bóng ma nhô lên từ đêm
thiên cổ
Một mình ta lơ ngơ chôn
nỗi niềm ly gia biệt thổ
Nền nhà xưa mọc lên nấm mộ
Chữ đề bia tức
tưởi tím bầm :
Ghê thay ! Thiên địa phong trần
Nơi đây… yểu mệnh
thanh-xuân-một-người !
tháng
11 - 2005
(*)
ĐÀO TIỂM (365 – 427) tự UYÊN MINH người
đời Đông Tấn, Trung Hoa. Ông làm huyện lệnh
ở Bành Trạch, chán cảnh lòn cúi quan trường, than
thở “ta đâu phải chỉ vì 5 đấu gạo
(tức lương bổng) mà phải khom lưng ư ?”,
bèn trả áo mão cho triều đình, lui về quê ẩn
cư, viết bài Quy khứ lai từ để bày tỏ
chí hướng. Người đương thời
rất ngưỡng mộ sự cao khiết của ông,
tặng ông danh hiệu Tĩnh Tiết Tiên sinh.
(**) Hai câu nầy trích
trong Quy khứ lai từ. Nghĩa : nhận ra chuyện
dĩ vãng là không thể ngăn lại được,
biết việc tương lai thì có thể đuổi
theo.
(***) Quân tử cố
cùng, tiểu nhân cùng nhi lạm hỷ !
(Khổng Tử -
sách Luận Ngữ)
Người quân tử cố chịu đựng
với sự khốn cùng; kẻ tiểu nhân gặp
khốn cùng thì làm điều tham lạm
*
Bâng khuâng Mùa Rụng
gởi NK Chi
Gói
bằng màu đỏ lá phong
Gởi
về tôi một sắc lòng còn tươi
Vô
tình gói cả Mùa Rơi
Mang mang phong vị
phương trời tri âm
Bồi hồi khói quyện
đan tâm
Có ai vừa thả
hương trầm vào thơ
Mà thao thức nhúm tàn tro
Mà nghe mực nghẹn bút
khô thở dài
Mơ màng đang chạm tay ai
Bâng khuâng Mùa Rụng nhặt
vài lá phong
Gói giùm tôi một nỗi
lòng
Thả vào mây trắng bềnh
bồng chiều thu…
*
Cảm Ngộ
Hoa
rụng vô tình nghiêng chén rượu
Xuân
tàn bất chợt trắng bài thơ
Tóc
nhuộm khói chiều thù mây bạc
Ai
lau nhan sắc để gương mờ ?
Hoa
nở bao giờ ? Chiều nay rụng !
Xuân
đến bao giờ ? Sáng nay đi
Chén
rượu thuyền quyên cầm tôi lại
Thoáng
hương xưa bối rối xuân thì
Cứ
tưởng gặp nhau trong vạn cổ
Ngỡ
ngàng em : thục nữ Kinh Thi
Ngỡ
ngàng tôi : nho phong hàn sĩ
Rượu
hồng đào nặng chén tương tri
Cứ
tưởng giang đầu giao giang vĩ
Sông
Tương cạn đáy hết đôi bờ
Sao
tôi ngơ ngác, hoài Tương thủy
Giọt
rượu tương phùng chết đuối thơ !
Đâu
biết xuân già hoa khai muộn
Vô
tình tôi mọc trái tim non
Em ngó lại rơi màu tóc biếc
Chén rượu tan tành vỡ khói
sương…
*
Chân Trần
Chân
trần chân đất chân không
Tung
tăng trên những ruộng đồng trẻ thơ
Dấu
chân rời tuổi học trò
Bước
lên thuỷ-hoả-trận-đồ thế gian
Bước
qua hiểm lộ kinh hoàng
Bước
về sạn đạo vắt ngang tình người
Đường
trần không rải hoa tươi
Phong
trần cứ nổi như rươi như cồn
Gió
đen bụi đỏ kinh hồn
Vật
vờ mươi dấu chân son cuối đường
Những
bàn chân rất chân phương
Rửa
chân cuối bến tà dương lặng lờ
Thôi
không kham nổi trường đồ
Lau
chân, chiều xuống, chuyện trò với chân
Tay
trơn vuốt nhẹ chân trần
Ngỡ
đang vuốt bóng bạch vân… chân trời !
7 - 2007
*
Cồn Xanh
Cồn
xanh như mới tắm xuân
Cỏ
tươi như gội thơm lừng lá non
Nằm...
Bông
cỏ rập rờn
Dưới
lưng mềm mỏng cỏ mơn trớn đùa
Cồn
xanh mơn mởn cỏ tơ
Nằm
trong trẻo mở bài thơ vô đề
Nằm...
Êm ả
nằm nghe
Sóng
thời gian gợn vỗ về không gian
Cồn
xanh cỏ mượt nắng vàng
Nhơn
nhơn Thiên Địa thẳng hàng nằm chơi
*
Sóng Vỗ
từ khi mưa nắng đổi thay
đất trời dị biệt gió mây bất đồng
người bờ Tây - ta bờ đông
ngồi nghe sóng vỗ bạc lòng ngày đêm
giờ này phương ấy nắng lên
ở đây ta đốt ngọn đèn soi ta
giờ này phương ấy nắng tà
ở đây thao thức tiếng gà tàn canh
nằm mơ biển ngọt dỗ dành
tỉnh ra tâm sự kết thành muối khô
từ khi Tý Ngọ khác giờ
đêm không đồng mộng đành mơ... mộng ngày
lòng ta uống gió mà say
tan ra cồn khói đảo mây chập chờn
biển sâu? ly biệt sâu hơn
muôn đời sóng vỗ mỏi mòn bến không
mỏi mòn tiếng sóng nghe chung
bờ Tây tóc rụng... bờ Đông bạc đầu!
*
Niệm Đặng Dung
Mài gươm !
Gươm
khuyết bao giờ ?
Cắm chuôi gươm gỉ
trước mồ trượng phu
Cảm hoài khí tiết thiên thu
Ngâm câu thế sự du du… lệ
nhoà
Lão hà ! Ôi… nại lão hà ! (*)
Mày râu vô mệnh hóa ra tầm
thường
Cúi đầu trả lại chuôi
gươm
Trăng tà đá khuyết mài suông
nỗi lòng !
4 – 2005
*
Hải Vân
Uy nghi Hải Vân !
Cõng đá đeo rừng vút lên muôn
trượng
Bạt gió đè mây ngất
ngưỡng
Nguy nga đệ nhất hùng sơn
Ngạo nghễ Hải Vân !
Chót vót tầng tầng sánh vai trùng
điệp
Núi đứng ngang trời lẫm
liệt
Xuân thu tề tựu mây chầu
Sá gì dâu bể bể dâu
Núi vẫn trơ gan đạp ngang
biển cả
Bắt sóng rửa bàn chân chai đá
Dựng chơi một dãy
trường thành
Chặn đường thiên lý
Khiếp vía lữ hành
Trăm ngựa chồn chân
Ngàn xe thở dốc
Hun hút rừng sâu cây xanh mặt
Cheo leo lưng núi đá rùng mình
Đèo cao lơ lửng
Trời biển chênh vênh
Kỳ vĩ Hải Vân !
Chớn chở chập chùng
Oai nghiêm sừng sững
Ngươi mượn biển
Đông ngắm hình soi bóng
Hiên ngang toan mở lối lên
trời
Vẽ gió vờn mây hí lộng
Đổi thay sắc diện liên
hồi
Lúc bí ẩn thâm nghiêm
Khi im lìm kỳ ảo
Ngươi uốn mình chơi
vơi thượng đạo
Cong lưng thắt ruột
đường đèo
Xẻ vực sâu thăm thẳm
Dựng vách đá hiểm nghèo
Trông lên chất ngất
Ngó xuống mịt mùng
Biển trời ngờm ngợp
thinh không
Nhớ ra hình hài cát bụi
Thanh
trọc bao phen chìm nổi
Phế
hưng mấy cuộc tồn vong…
Ôi…
Hải Vân, Hải Vân !
Hẻm
núi hốc rừng ngàn xưa hung bạo
Chiều
nay lau lách đìu hiu
Ai
người khai sơn phá thạch ?
Xả
thân chém đá mở đèo
Xưa
đồn ải nào ai trấn thủ ?
Nay
đầu ghềnh khắc khoải chim kêu
Mơ
hồ bóng người lính thú
Tạc
vào gạch đá hình rêu
Giăng
giăng quan ải mây hoài cổ
Bàng
bạc sơn đầu khói đăm chiêu
Mây
trắng mênh mang
Biển
trời vòi või
Nhân
thế về đâu chập chờn sáng tối
Hồn
xưa phương nào ấm lạnh u minh ?
Quạnh
quẽ Hải Vân !
Đâu
dấu chân người ngàn năm trước
Núi
trông mây, mây ngó núi u hoài
Đèo
cao co thắt từng khúc ruột
Thiên
cổ qua về… ai nhớ ai ?
*
Huế Ngày Về
Ngày về - về Huế
- Huế xưa
Về em xuân muộn anh vừa
chớm thu
Đưa nhau ra bến sa mù
Lơ ngơ kỷ niệm
chần chừ bước theo
Lòng em đẩy nhẹ
mái chèo
Trôi đi… trôi với bọt
bèo lòng anh
Đưa nhau qua mấy cửa
thành
Màu rêu bất tuyệt còn
xanh não nùng
Xưa
chờ em cửa Chính Đông
Anh in vào đá nỗi lòng
héo hon
Xưa
tìm em cửa Hiển Nhơn
Đá
câm gạch lạnh rêu mòn dấu tay…
Sao
lòng nghèn nghẹn nước mây
Trôi
đi… trôi với tháng ngày mù sương
Đưa
nhau qua những con đường
Thâm
u lá rụng cuối vườn tịch liêu
Xưa
em guốc mộc khua chiều
Giấu
trong tà áo ít nhiều vu vơ
Anh
qua cửa Phủ đứng chờ
Chiều
em về muộn rêu mờ dấu chân…
Sao
lòng gợn sóng bâng khuâng
Mây
trôi nước lại ngập ngừng chưa trôi
Trôi
đi… bèo bọt một thời
Mái
chèo tâm sự rã rời lòng nhau
Đưa
anh lên ngọn giang đầu
Chia
ly ngày ấy rầu rầu Huế mưa
Sông
Hương no nước căng bờ
Tim
anh cuồn cuộn… lững lờ tình em
Tình
ơi không nặng sao chìm
Trăm
năm rười rượi nằm im đáy lòng…
Rồi
thôi, gió bụi mịt mùng
Cuốn
em ra khỏi khuê phòng đài trang
Rồi
thôi, nước mắt lỡ làng
Vùi
trong vạt áo vô vàn tiếc thương !
Ngày
về lặng khói im sương
Về
trong Huế mới buồn buồn Huế xưa
Về
em ngấn lệ chưa mờ
Về
anh tay lạnh thẫn thờ nâng tay
Nhìn
nhau lòng nghẹn nước mây
Hồng
nhan em cạn anh đầy đa truân
Lòng
như gợn sóng bâng khuâng
Chuyến
đò dĩ vãng tần ngần đang trôi
Trôi
vô lòng Huế… Huế ơi !
2000
*
Tiếng Ngô Đồng
Ngô đồng rụng lá
phương nao ?
Mà trang thơ cổ xạc xào lá
rơi
Vàng
thu thấp thoáng phương trời
Lá
khô thao thức cùng tôi phương nầy
Bóng
thơ hình chữ lay bay
Ấy
ai thiên cổ đêm nay xao lòng ?
Tiếng
ngô đồng…
tiếng ngô đồng
Tiếng
ngàn thu trước rơi cùng tiếng
thơ
Hồn
tôi rụng với thu xưa
Lòng
ai phương nọ vàng chưa thu nầy ?
2003
*
Thu Âm Hoàng Hoa
Mỹ
tửu hề !
như hồng nhan
Uống
thôi, chốc nữa đêm tàn rượu chua
Uống
đi, thu đã cuối mùa
Ngoài
hiên gióng giả tiếng mưa xót lòng
Trải
manh chiếu cũ nằm chung
Dễ
chi thu dạ tương phùng tao nhân
Ba
mươi năm giỡn phong trần
Đêm
nay nằm khểnh thẳng lưng cười khà
Cảm
hoài nâng chén hoàng hoa
Chao
ơi… màu rượu có pha sắc lòng !
8 – 2006
*
Vô Thanh
Có tiếng ai kêu tên tôi cuối
chân trời tiềm thức ?
Như tiếng uyên xưa
âm vang trong rừng sâu ký ức
Rơi xuống giữa
vườn trăng
Lan toả
trong thinh không
Màu tóc xưa huyền hoặc…
Có cánh hoa nào bay ngậm nỗi
tàn phai câm nín
Có con bướm đoạn
trường kêu không thành tiếng
Lạnh lẽo một màu
trăng
Ngan ngát hương sầu
đông
Chờ nhau chờ nhau khắc
khoải…
Có tiếng lòng tôi giữa
ngàn khơi sóng vỗ
Tiếng gió qua thành xưa
Tiếng mưa về mái
cũ
Mà không còn không bao giờ
còn nữa
Một tiếng hoàng uyên…
Muôn thuở tình ta vô ngôn
Một
phút đời em dâu bể
Nỗi
buồn rơi…
Không
rơi thành giọt lệ
Sao
vỡ nát lòng… tiếng khóc vô thanh !
*
Nhớ Làng
Dài đêm rả rích mưa suông
Bỗng đâu dăm tiếng
ễnh ương dội về …
Làng quê ? Phải tiếng làng quê
Ao khô hồ cạn não nề kêu
mưa
Làng xưa ? Ôi tiếng làng xưa !
Tiếng trong tiếng đục
mấy mùa nước nôi
Lòng tôi ? Bao tiếng lòng tôi !
Tiếng câm tiếng nghẹn
một thời tang thương
Mấy mươi năm ở
phố phường
Đêm nay nghe tiếng ễnh
ương nhớ nhà
Nhớ làng vời vợi xót xa
Nhớ quê muôn dặm chắc là
đang mưa
Thấm lòng bùn đọng nước
chua
Ẽnh ương đâu biết …
tôi vừa bật kêu
*
Phạm Ngọc Lư