Hoài Khanh Thân Phn

Phm Ngc Lư

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhắc đến Hoài Khanh, rất nhiều người yêu thơ miền Nam thập niên 1960 đầu 1970 nghĩ ngay đến Thân Phận, tập thơ giúp anh thành danh trên văn đàn thuở đó. Phải mất gần mười năm chập chờn đồng bóng đeo đẳng đuổi bắt "nàng thơ", phải ngàn ngàn đêm bồng bềnh lờ lững giữa hai bờ lục bát, Hoài Khanh mới một Thân Phận cho ḿnh, cho đời.

Trước Thân Phận, tập Dâng Rừng (xb năm 1957) chẳng gây nổi một âm vang nào bỡi những non nớt thô thiển không thể tránh khỏi của một tập thơ đầu tay. Tuy vậy, văn học miền Nam vào cuối thập niên 1950 cũng chưa khởi sắc cả, chỉ mới bước đầu tập hợp, h́nh thành; nên việc một chàng thanh niên mới 23 tuổi sẵn sàng bán chiếc mobilette của ḿnh (theo lời anh kể) để lấy tiền tự xuất bản tập thơ đầu tay nên đă nói lên ḷng đam thơ sự khảng khái quyết tâm dấn bước vào ngưỡng cửa thi ca. Sau Thân Phận, Hoài Khanh c̣n in tiếp hai tập thơ nữa nhưng cũng chẳng âm vang lớn lao cả, thể do t́nh h́nh văn học miền Nam sau hiệp định Paris 1973 đang hồi dao động nhớn nhác, thi ca "chẳng " khi thời cuộc đang chuyển động để bước đến bước ngoặc định mệnh của lịch sử. Chung quy, theo tôi, cả đời thơ của Hoài Khanh chỉ c̣n để lại một Thân Phận. Mai kia, khi "những đám mây hắc ám tan biến đi, bầu trời (văn học) muôn thuở vẫn tươi xanh trong sáng", tôi tin rằng một số bài thơ trong Thân Phận sẽ c̣n tồn tại với văn học sử Việt Nam.

Khi tập Thân Phận ra đời, kẻ viết bài này đang học trung học mới tập tễnh đến với thơ, chiêm ngưỡng thơ như một nữ thần nhan sắc, ngẩng nh́n tên tuổi các thi thành danh với ḷng ngưỡng mộ: nào Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền, Thùy Yên, Viên Linh. Nào Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, Hoài Khanh v.v. Dạo đó tôi chưa hề đọc Thân Phận chỉ đọc thơ Hoài Khanh đăng rải rác trên các tạp chí văn nghệ một số nhận định về thơ anh của các nhà phê b́nh uy tín. rất nhiều lời khen thơ Hoài Khanh, đặc biệt lục bát, một lục bát của riêng anh, khác với lục bát Viên Linh, càng khác hẳn lục bát Bùi Giáng. Mỗi nhà thơ mỗi vẻ, mỗi tính cách; mỗi cây bút đều muốn t́m cho riêng ḿnh một đặc trưng tân kỳ độc đáo. Điều quan trọng liệu cái hay cái mới của thơ thời đó c̣n đứng vững cho tới hôm nay hay không?

Hôm nay, hơn 40 năm sau khi Thân Phận ra đời, qua bao nhiêu ngày dâu tháng bể, qua trùng trùng nước chảy chân cầu, béo trôi bọt nổi, tôi mới được đọc Thân Phận ngay trước mặt tác giả hiểu sao một số bài thơ của Hoài Khanh đă đi vào ḷng người đọc một thuở. Trong tay tôi lúc này, Thân Phận bản tái bản năm 1969, màu giấy đă vàng úa nhưng nhiều bài viết trước năm 1962 (thuở miền Nam đang tương đối thanh b́nh) như vẫn c̣n nóng hổi hơi thở, ngây ngây mùi tâm sự thườn thượt cái buồn thiên cổ.

Thôi tôi trầm một vũng sầu

Rừng hoang bản ngă cúi đầu trống trơn

Nghiến răng xua mối u hờn

Ḷng nghe tịch mịch tiếng buồn muôn xưa

(Thân phận, tr. 29)

 

Nước xuôi lạnh một ḍng sầu

Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian

Ta nghe ḷng vỡ cung đàn

Hồn âm thanh rợn chiều hoang cành

...

Con sông nào đă xa nguồn

Th́ con sông đó sẽ buồn với tôi

(Ḍng sông của tôi, tr. 26)

 

Đó cái buồn không của riêng Hoài Khanh của cả muôn thuở nhân sinh hữu hạn này anh đă phổ vào lục bát rất thành công. Cũng cái buồn căn cốt nhục đó anh đẩy vào thể thơ 8 chữ liên vận bằng bằng trắc trắc hoặc thơ tự do th́ khập khễnh ngay. Bởi vậy, theo tôi, sở trường của Hoài Khanh lục bát; thể thơ này rất phù hợp với tính cách tâm trạng của anh. Trong khi nhiều bạn rất thích bài Ngồi Lại Bên Cầu thuộc ḷng ai cũng mường tượng thấy h́nh bóng của chính ḿnh trong:

Tôi lẩn trốn thấy ḿnh không thể

Mây của trời rồi gió sẽ mang đi

 

Th́ tôi khẳng định với Hoài Khanh rằng: Trông Theo mới bài hay nhất trong Thân Phận thể, của cả đời làm thơ của anh:

Bến sông này bến sông này

Trăng xưa lạnh xuống hàng cây gục đầu

Người xưa chừ biệt đâu

Này trăng gió này câu giă từ

Lối đi vàng nhạt mùa thu

Nghe lau lách động niềm u uất buồn

Mắt người mang cả quê hương

Ḷng ta mang cả đoạn trường tháng năm

 

Nhưng khi đă biết t́nh cờ

Th́ hai thứ tóc đă mờ giấc xưa

Với trăng chia nhớ đôi bờ

Với sông bến nọ chia giờ ra đi

Người ơi c̣n lại những

Mai sau nếu chút t́nh si úa tàn

(tr. 56-58)

 

Vậy nhưng chẳng có bến bờ nào đâu! Chảy măi không ngừng nghỉ trong Hoài Khanh là ḍng-sông-không-có- hai-bờ của đ́u hiu cô đơn, hoang vu quạnh quẽ. Một nỗi buồn miên viễn thiên thu cứ lững lờ gờn gợn, cứ thấp thoáng nhấp nhô, không chót vót cao, không thăm thẳm sâu, chẳng mênh mông rộng, nó u u ẩn ẩn, mờ mờ mịt mịt, lành lạnh thê thê. Gấp sách lại, nhắm mắt định tĩnh một phút rồi lại mở ra, bàng hoàng đọc: "Nh́n nét mặt Khanh tôi thấy sự Chết, tôi thấy Bệnh hoạn, Đau khổ, Quằn quại, Khắc khoải, Ray rứt, Xao xuyến, Hăi hùng, Cô đơn; tôi thấy sự Chiến bại, sự Thất vọng của con người". (Phạm Công Thiện, lời tựa Thân Phận).

Tôi giật ḿnh, ngẩng nh́n Hoài Khanh và e dè hỏi: "Chữ nghĩa của Phạm Công Thiện khốc liệt quá, có thật hồi c̣n trẻ anh ít nhiều giống như được miêu tả không?". Hoài Khanh b́nh thản nói: "Đời tôi ăm ắp nỗi buồn từ khi c̣n nhỏ tuổi". Người buồn th́ làm sao làm thơ "vui" nổi! Người đọc hầu như không t́m thấy trong Thân Phận một bài hoặc năm ba câu tương đối lạc quan hoặc có chút ǵ khinh mạn kiêu bạc là phải. Tôi lại ṭ ṃ: "Cùng thời với anh, một số nhà văn nhà thơ khá ồn ào, t́m cách lăng xê xưng tụng tán thưởng nhau, được phỏng vấn, được các người đẹp ái mộ, lại c̣n được giải thưởng .v.v. C̣n anh th́ lại im ĺm lặng lẽ, nghĩ cũng lạ". Hoài Khanh vẫn b́nh thản: "Tôi khác họ, tôi không thích những thứ đó". Th́ ra vậy. Tôi lại cúi xuống trang sách:

"Rồi tôi nh́n Khanh. Bỗng nhiên tôi thấy tất cả sự vật ngừng lại, cả thế giới lặng lờ và Hoài Khanh cũng lặng lờ như một bức ảnh treo tường" (Phạm Công Thiện, lời tựa).

Lặng lờ: cái mà tác giả Ngày Sinh Của Rắn ranh mănh nh́n xuyên suốt bạn ḿnh 40 năm trước, th́ hôm nay càng lặng ngắt thê thiết hơn, giữa một thế giới quá hỗn mang chẳng phút giây tĩnh lặng, Hoài Khanh không c̣n là "bức ảnh treo tường" nữa mà anh đă hóa thạch từ lâu. Tôi "đọc" ở anh sự hoang mang và nỗi hăi hùng của một người đang lẩn trốn quá khứ của chính ḿnh, tự chôn vùi ḿnh giữa Tang-Hải-Trận-Đồ hung bạo, cho dù phải dày ṿ ḿnh trong cái cô đơn truyền kiếp, cho dù đời đă cuối mùa tóc bạc, cổ lai hi!

Hỡi ơi dâu bể không làm mệnh

Mà kiếp trầm luân cũng bạc đầu.

(Trở gối)

Như thế, rơ ràng Hoài-Khanh-nhà-thơ-không-chết, bởi anh là nhà thơ đích thực. Từ lâu chúng tôi đă nghiệm ra điều này: giữa trầm luân dâu bể, chắc chắn chúng ta bị tước đoạt và mất mát rất nhiều thứ, nhưng nếu tự đánh mất nhân cách của ḿnh th́ không bao giờ có thể trở thành nhà văn nhà thơ đích thực được. Tuy vậy, trước một Hoài-Khanh-đời-thường, lắm khi chúng tôi cảm thấy áy náy, không vui bởi anh quá lặng lẽ, khép kín, ít nói, hững hờ, nhạt nhẽo, giấu ḿnh quá kỹ và rất ái ngại những gặp gỡ có nhiều người. Anh vẫn đắm ḿnh trong cái thâm u hiu hắt, không chịu thoát ra khỏi ṿng tay của nỗi cô đơn thâm căn cố đế và dường như cứ bị những h́nh bóng ma quỷ dữ dằn nào đó ám ảnh, đe dọa. Một lần nữa tôi thấm thía đọc lời tựa dữ dội mà Phạm Công Thiện viết cho Thân Phận khi ông mới 21 tuổi, đó không hẳn là những câu tiên tri mà c̣n là một phán quyết khắc nghiệt về thân phận của Hoài Khanh cũng như của thơ anh: "Chỉ nh́n nét mặt Hoài Khanh và chỉ nghe sự im lặng của anh, tôi kinh hoàng. Tôi muốn đuổi anh đi ngay. Bởi v́ đây là h́nh ảnh bi đát của đời, của con người, của một kẻ bị đày ải giữa băi đất hoang tàn của nghĩa địa trần gian". Chắc Phạm Công Thiện không c̣n nhớ ǵ lời tựa bốc đồng đó, nhưng lúc này nếu gặp lại người bạn cũ của ḿnh chắc ông sẽ rưng rưng và im lặng cái-im-lặng- của-Hoài-Khanh! Và:

Ta đi ḷng có trong mồ

Bước vô tư vẫn lạnh bờ ly tan

Sông xanh rời trắng mây vàng

Chút hồn sơ cổ rợn ngàn sương phong

(Quên, tr. 34)

 

Phạm Ngọc Lư

tháng 3.2006