mùa xuân

nh Hi An

Trn Trung Đo

 

 

 

 

 

 

 

Ai về qua phố Hội An
Mua dùm tôi tấm lụa vàng Duy Xuyên
Tôi đi quét lá trăm miền
Mẹ ngồi dệt sợi ưu phiền quanh năm
Mai nầy con trở về thăm
Sẽ may cho mẹ chiếc khăn gói trầu
Dù xa cách nửa địa cầu
Có hồn con vẫn theo hầu mỗi đêm.
(Lụa Duy Xuyên, thơ Trần Trung Đạo)

Hội An, một trong những trung tâm kinh tế và thương mại cổ nhất Việt Nam, nơi dừng neo của những tàu buôn quốc tế, nơi nghiên cứu và ẩn dật của những nhân vật cách mạng, chính khách sa cơ, nơi định cư của những đại tộc lừng danh thế giới. Hội An, thành phố với những mái ngói cong, những cột gỗ liêm tṛn chạm trổ công phu, những con đường lót sỏi chạy dài theo bờ sông Thu thơ mộng. Hội An với những cành Cherie chín mọng đong đưa trên tàn lá thấp, tiếng guốc của những cặp t́nh nhân khua rộn ră đường về. Và với tôi, thành phố diệu kỳ kia là nơi tôi đă lớn.

Tôi trở lại Hội An lần cuối vào mùa Xuân năm 1981. Vừa bước xuống xe là tôi nghĩ ngay đến câu thơ của nhà thơ Hoàng Lộc mà tôi thuộc ḷng từ một đặc san Xuân của trường Trần Quư Cáp năm nào "Nghe rơi nước mắt thời lưu lạc, chừng buổi về thăm đă tuyệt mù". Đúng vậy, sáu năm sau ngày được "giải phóng", Hội An đă thay đổi quá nhiều. Thành phố cổ vốn đă u trầm lại càng buồn hơn. Thành phố vốn đă già nua trong thời chiến h́nh như càng cằn cỗi và mệt mỏi hơn trong thời b́nh. Hội An giống như một thành phố của nước Pháp đang bị Đức chiếm đóng trong thời đệ nhị thế chiến mà tôi thường xem trong những phim tài liệu. Nơi đó, con người sống trong một không khí sợ hăi, lo âu và nghi ngại lẫn nhau. Nơi đó, con người sống không có một chút hy vọng và cũng không phải là tuyệt vọng, sống như một định mệnh hơn là một chọn lựa.

Bạn bè nay chẳng c̣n ai
Dăm đứa ở lại đạp xích lô
Dăm đứa về quê làm ruộng
Có đứa dường như đă vượt biên
Có đứa bỏ mộng làm thầy để đi bán sách
Phượng bây giờ chắc có chồng
Nước Mỹ xa xôi chẳng c̣n ǵ đáng nhớ
Những ước mơ xanh và một thời mộng đỏ
Sẽ vàng hoe theo những tháng năm quên
Trời Sài G̣n tháng sáu mưa đêm
Như từng nhát dao chém xuống đời vội vă
Tôi ra đi, dặn ḷng quên tất cả
Những hẹn thề toan tính thuở hoa niên
Bốn phương trời lưu lạc một bầy chim
(Đêm Cuối Đi Qua Trường Luật,
thơ Trần Trung Đạo)


Đoạn thơ trên tôi viết cho Sài G̣n tháng 6 năm 1980 trong một lần đi ngang qua trường Luật nhưng cũng rất thích hợp với Hội An. Phượng là tên của một người con gái Hội An mà tôi có lần đă mượn đem vào thơ.
Một câu nói mà nhiều người thường nói "không có nơi nào đẹp hơn quê hương ḿnh" nhưng đối với những chàng trai bỏ xứ ra đi hay bị đẩy ra khỏi xứ th́ cần thêm câu "và cũng không có con gái nào đẹp hơn con gái ở quê ḿnh". Tôi ít viết về những người con gái Hội An không phải bởi v́ Hội An thời tuổi tôi có ít người con gái đẹp nhưng v́ tôi chẳng có một mối t́nh nào đủ lớn như cỡ "Ba năm qua em trở thành thiếu phụ, ngồi ru con như ru phận ḿnh..." như của nhà thơ Đynh Trầm Ca để mang vào thơ.

Trong những đứa bạn đang "về quê làm ruộng" th́ tôi chỉ gặp lại Quốc là người duy nhất. Quốc và tôi thân nhau từ những ngày thơ ấu. Nếu tôi không gọi chắc cậu ta vẫn lằm lũi kéo chiếc xe, ở ngoài Trung người ta gọi là xe ḅ, chở đầy đất đi qua. Chúng tôi không nói ǵ, chỉ im lặng nh́n nhau một hồi lâu. Một cuộc đối thoại vô ngôn nhưng chứa đựng cả một niềm thống hận của một thế hệ chịu gian khổ trong chiến tranh và bị đày đọa trong ḥa b́nh. Phạm Quốc, một trong những học sinh giỏi văn nhất của trường, người đă từng thi đậu thủ khoa kỳ thi đệ thất ngày xưa ở trường tiểu học quê tôi bây giờ là một phu kéo xe đất đi đắp nền nhà thuê.

Tôi c̣n nhớ khi lên đến lớp mười, mỗi bài luận Quốc làm đều được thầy Nguyễn Văn Liêu, dạy Việt Văn, đọc lại cho cả lớp nghe và khen đáo khen để. Các cô nữ sinh đều coi cậu ấy như thần tượng, chẳng bù với cái thân "ốm yếu ho hen" của tôi chẳng ai thèm để ư. Quốc viết văn và Quốc làm thơ. Thơ của Quốc không có ǵ đặc biệt nhưng văn của Quốc th́ rất súc tích và gói ghém những suy nghĩ vượt xa hơn nhiều so với tuổi đời 15, 16 của cậu ấy. Có một lần thầy Liêu ra đề luận "Là một học sinh, em nghĩ ǵ về chiến tranh?", Quốc, thay v́ tả những cảnh "đêm ngồi nh́n hỏa châu rơi" theo kiểu nhạc thời trang buổi ấy, cậu ta đă tuôn trào trên giấy những hằn học, những thống trách của ḿnh trước những đau thương và tàn phá của quê hương. Thầy Liêu đọc lại cho cả lớp nghe với một chút e dè v́ ngôn ngữ nặng mùi oán ghét chiến tranh của cậu ấy, nhưng trong ánh mắt, thầy không thể che dấu niềm kiêu hănh khi có một người học tṛ mang những suy nghĩ lớn dù trong lúc tuổi c̣n rất nhỏ. Trong ḷng thầy Liêu, Quốc sẽ là một "nhân kiệt" tương lai của vùng đất "địa linh" xứ Quảng của thầy. Thầy Liêu biết Quốc yêu nước lắm. Chơi thân với Quốc, tôi cũng hiểu điều đó. Có lần chúng tôi đang ngồi uống cà phê trong một quán cà phê ở gần khu Khổng Miếu, trong lúc cái máy hát của chủ quán đang phát một bản nhạc của Phạm Duy, bài Bà Mẹ Gio Linh, "Quân thù đă bắt được con, mang ra giữa chợ cắt đầu, nghẹn ngào không nói một câu, mang khăn gói đi lấy đầu, chiều về thôn xóm huồn teo, xa xa tiếng chuông chùa gieo.." tôi thấy nước mắt Quốc nhỏ xuống. Giọt nước mắt trong như ngọc của một tâm hồn thiếu niên Việt Nam đang đau xót cho vận nước nổi trôi. Năm 1972, tôi rời Hội An vào Sài G̣n, Quốc cũng rời Hội An để đi Thủ Đức sau khi chẳng may bị thi rớt tú tài 2 và không c̣n tuổi để tiếp tục xin hoăn dịch v́ lư do học vấn.

Năm 1975, Quốc là một Trung Úy Pháo Binh, sau 75 ở tù bốn năm trên Tiên Lănh trước khi về quê kéo xe đất đắp nền nhà thuê. Tôi lặng lẽ nh́n Quốc một hồi lâu như muốn t́m bên trong chiếc áo vá màu đen kia có c̣n lại vết tích ǵ của những ước mơ thời niên thiếu. C̣n hay không, không ai có thể biết và có lẽ không bao giờ Quốc sẽ trả lời. Tôi cũng tự biết rằng không nên hỏi bởi v́ hỏi là xúc phạm, là xát muối lên một vết thương đang mưng mủ trong ḷng của một người lính trẻ miền Nam lỡ vận. Tôi chỉ biết mời bạn một điếu thuốc, nói vài câu chúc tụng, thừa thăi trong lúc nầy, rồi chia tay nhau. Quốc cũng thế, không nói nhiều và cũng chẳng nhắc ǵ quá khứ, cúi cầm cán xe kéo đi không ngoái đầu nh́n lại. Những hạt mưa Xuân hay những giọt nước mắt đang lăn nhẹ trên má tôi. Tôi đang khóc cho bạn tôi, cho tôi và cho những mùa Xuân không bao giờ trở lại.

Nỗi ḷng anh Trung Úy Pháo Binh Phạm Quốc ở miền Nam cũng giống như tâm sự của anh thương binh Cộng Sản tên là Thuận, mà tôi đă gặp sau ngày 30 tháng 4 ở Sài G̣n. Tôi hỏi anh Thuận "bây giờ anh thích ǵ nhất?", anh trả lời không suy nghĩ "tôi muốn về Bắc sống với mẹ tôi, ngày xưa tôi không có chọn lựa nào hơn là đi bộ đội, bây giờ th́ khác, tôi phải về thôi".

Anh nhấn mạnh chữ "thôi" giọng Hà Nội như một lời khẳng định, một thách thức, một bất chấp của một con người bị lừa gạt quá nhiều, bị đày ải quá nhiều, bị mất mát đến độ chẳng c̣n ǵ để mất. Đă qua rồi những khẩu hiệu "hạt gạo cắn làm hai" để dành cho miền Nam đói khổ và "xẻ dọc Trường Sơn" để giải phóng miền Nam ra khỏi "gông cùm đế quốc". Năm tháng trôi qua, nhưng h́nh ảnh của người thương binh miền Bắc với chiếc nạng gỗ vẫn c̣n in đậm nét trong tôi.

Ngoài hiên mưa bắt đầu rơi
Rơi thấm ướt ḷng chúng tôi đêm ấy
Tôi cầm lấy tay anh
Đôi bàn tay lạnh giá
Mắt nh́n nhau như đă nói ngh́n câu
Tôi thấy trong vô cùng hun hút đêm sâu
Chảy trong chúng tôi chung một ḍng máu đỏ
Đời chúng tôi đời những đứa con hoang
Tim chúng tôi rung một nhịp Việt Nam
Hồn chúng tôi hồn bốn ngh́n năm cũ
Anh vỗ nhẹ vai tôi
Rồi khệnh khạng trở về bệnh viện
Tôi ngậm ngùi không thể nói thêm chi
V́ mai nầy tôi cũng sẽ ra đi
Đến một nơi tôi chưa hề nghĩ đến
Năm tháng vẫn trôi đi
Ḍng đời tôi lạc bến
Nhưng trong ḷng khói thuốc chẳng hề tan.
(Anh Bộ Đội Thương Binh -Thơ Trần Trung Đạo)


Trước mắt anh một miền Nam tự do, êm ấm và trù phú dù chịu đựng gần một phần tư thế kỷ chiến tranh. Dĩ nhiên sự tự do no ấm mà đồng bào miền Nam đang có chưa hoàn toàn đủ nghĩa nhưng đó là những mầm xanh của hy vọng cho các thế hệ tương lai, đó là những điểm bắt đầu cần thiết của một chế độ Cộng Ḥa đang chập chững lớn lên sau bao nhiêu thế kỷ phân tranh chinh chiến và Thực Dân bóc lột.

Ư thức dân chủ trong suy nghĩ của đồng bào miền Nam dù vẫn c̣n trong giai đoạn khởi đầu nhưng đó là nền móng, là mái vách cho căn nhà dân chủ cho đất nước sau nầy. Miền Nam chưa thể một sớm một chiều trở thành Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan nhưng những nhà máy nhỏ ở Khu Kỹ Nghệ Biên Ḥa, những xưởng dệt bằng điện ở Ḥa Vang, Thủ Đức là những nền móng công nghiệp cần thiết cho một quốc gia hiện đại tương lai. Sự có mặt của các anh đă làm những tia sáng hy vọng cho quê hương Việt Nam vừa chợt lóe lên đă vụt tắt. Sự có mặt của các anh đă hủy diệt tất cả mầm xanh của đất nước vừa mới đâm chồi. Chắc anh đă về đất Bắc. Anh nghĩ ǵ trong khi chống nạng trở về Hà Nội? Anh nghĩ ǵ khi nh́n các bí thư, các tỉnh ủy, các ủy viên trung ương sống trong các biệt thự nguy nga tráng lệ giữa một đất nước lầm than khốn khổ? Anh sẽ trả lời sao anh khi mẹ anh hỏi miền Nam có đói lắm không con?Cuối cùng, với anh, tất cả những mỹ từ: độc lập, tự do, hạnh phúc chỉ c̣n là những chiếc bánh vẽ, đều đă bị lừa gạt, bị nhân danh.

Lần trở lại Hội An, tôi ghé thăm chùa Viên Giác, nơi đang giữ của tôi những bí mật lớn của đời ḿnh và là nơi tôi cuộn tṛn tuổi hoa niên dưới bóng cây đa già thân thuộc. Không mấy ai biết tôi từ đâu đến, cha mẹ tôi là ai và dĩ nhiên, ở một nơi mà sự sống đang đùa cùng cái chết th́ cũng chẳng ai cần t́m hiểu làm ǵ. Từ những ngày rất nhỏ tôi đă phải sống trong một nỗi ám ảnh triền miên về quá khứ và cả về tương lai của chính ḿnh. Tôi đến Hội An lần đầu năm 1968, mới 13 tuổi nhưng đă có một dĩ văng rất dài và với những vết thương cứa tận trong tim không bao giờ lành được. Những đau xót tuổi hoa niên đă chảy vào bài thơ tôi viết khi Nhớ Cây Đa Chùa Viên Giác:

Tôi chưa kịp trở về thăm Viên Giác
Mười hai năm bèo giạt bến sông đời
Cây đa cũ chắc đă già hơn trước
Biết có c̣n rụng lá xuống sân tôi

Đời lưu lạc tôi đi hoài không nghỉ
Để niềm đau chảy suốt những mùa thu
Thời thơ ấu cây đa già tri kỷ
Vẫn c̣n đây trong kư ức xa mù

Tôi khổ cực từ khi cha mất sớm
Nên bà con thân thuộc cũng xa dần
Khi tôi khóc, đa đau từng cuống lá
Khi tôi cười, xào xạt tiếng quen thân

Đa làm mẹ vỗ về tôi giấc ngủ
Đa làm cha che mát những trưa hè
Đa làm bạn quây quần khi rảnh rỗi
Đa làm người chơn thật chẳng khen chê

Mỗi buổi sáng tôi một ḿnh ôm chổi
Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới
Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn

Chùa thanh tịnh chẳng dung hồn lữ thứ
Một chiều thu tôi lạy Phật ra đi
Bỏ lại tiếng kinh cầu vang khuya sớm
Cây đa già đứng lặng khóc chia ly

Đường tôi qua đă không c̣n bóng mát
Ngày nhọc nhằn mưa lũ lúc đêm khuya
Đa ở lại âm thầm ru khúc hát
Ngậm ngùi rơi theo mỗi tiếng chuông chiều

Đa thân mến dẫu có vàng thương nhớ
Cũng xin đừng gục xuống dưới sân tôi
Xin cố đứng để chờ nghe tôi kể
Chuyện trầm luân của một kiếp con người

Tôi sẽ đến ngôi chùa xưa Viên Giác
Nhặt mảnh đời rơi rớt ở quanh đây
Ôi thằng bé nghèo nàn xưa đă lớn
Đi làm người du thực ở phương tây

Tôi viết nốt những bài thơ dang dở
Vá t́nh người rách nát thuở hoa niên

Đa sẽ hát bài đồng dao muôn thuở
Nhạc thu buồn nước mắt chảy trong đêm.


Chùa Viên Giác, nơi trú ẩn của tôi, một con chim non tránh băo suốt năm năm trời. Ngoại trừ một số ít bạn học và hai cây đa già trước cửa chùa, năm năm dài tôi đă sống và học trong một đời sống hoàn toàn biệt lập với thế giới bên ngoài. Ngày 30 tháng 8 năm 1972, tôi từ giă cây đa già tri kỷ, mang khăn gói hành trang đi xuống cuộc đời. Sau lưng, cánh cửa tùng vừa khép lại.

Tôi trở về một lần nữa trước khi đi đến một nơi xa thật là xa, xa hơn cả trí tưởng tượng của ḿnh. Thầy tôi ngạc nhiên khi thấy tôi trở lại. Thầy nói như than thở "trong lúc nhiều người bỏ chùa ra đi th́ con trở về". Tôi bạch với thầy "con về thăm thầy nhưng mai con sẽ ra đi, đi xa hơn chuyến đi lần trước".

Tôi đến với đạo Phật từ tuổi lên 7 qua ngưỡng cửa của Gia Đ́nh Phật Tử. Tôi đến với đạo Phật không phải v́ đặc tính huyền bí linh thiêng tôn giáo nhưng đơn giản v́ đạo Phật là đạo của t́nh thương, đạo của bao dung. Đức Phật từ bỏ tất cả cung vàng điện ngọc để mang t́nh thương đi vào thế giới khổ đau của nhân loại bằng một chiếc áo vàng và đôi chân đất. Nhiều nhà khoa học, kể cả Albert Enstein, đến với đạo Phật không phải v́ đức Phật là đấng giác ngộ siêu nhiên nhưng v́ ngài là nhà khoa học, nhà đại giáo dục, là người thầy đạo đức của con người. Đạo Phật không ban cho con người cứu cánh nhưng giúp cho con người những phương tiện cần thiết để tự đạt tới cứu cánh an lạc cho chính ḿnh. Tôi yêu đạo Phật là v́ thế.

Cây đa vẫn c̣n đó như chờ tôi trở lại, vẫn xào xạc chào đón bước chân tôi về thăm. Cây đa không bị đói như con người mà tôi có cảm tưởng cũng ốm hơn những năm trước. Đa không tuổi mà sao tôi thấy già hơn những năm xưa. Đừng ngă xuống nghe đa, phải sống như tôi đă phải sống, phải vươn lên như tôi đă phải vươn lên giữa cuộc đời trầm luân thống khổ, phải xào xạc một cách hồn nhiên như khi tôi ngồi đọc bài thơ đầu tiên trong những đêm hoa niên thao thức.

Ngày mai tôi lại sẽ ra đi. Lần nầy th́ đi xa lắm. Đừng hỏi tôi đi đâu v́ chính tôi cũng không thể trả lời. Điều duy nhất mà tôi có thể trả lời được là có một ngày tôi sẽ về lại nơi nầy như chiếc lá đa trong sân chùa Viên Giác, dù có bay xa bao nhiêu th́ vẫn có một ngày sẽ trở về với nguồn cội của ḿnh. Tôi sẽ về với cây đa già như về với quê hương đầy đau thương, vinh quang và thống khổ Việt Nam nếu tôi không chết giữa biển cả mênh mông hay chết trên xứ người xa lạ. Nhưng dù tôi có chết đi, th́ hồn tôi cũng t́m về lại v́ hạnh phúc đầu tiên và cuối cùng của tôi là ở đây, dưới bóng đa nầy

Trần Trung Đạo