Người làm Thơ đă thật Chết
Như đă nói thành lời nhiều lần,
tôi là một người có rất nhiều bạn; nếu
ai đấy làm một cuộc thống kê chính thức, so
sánh về số lượng bằng hữu, kết
luận về điều trên hẳn sẽ
được chứng minh. Gần hết một
đời, tổng kết lại, tôi vẫn không có
một “sự nghiệp” nào, và cũng chẳng muốn
điều ǵ hơn ngoài việc được huynh đệ,
bằng hữu bốn phương đối xử chân
thành thương mến. Tôi rất hănh
diện, trân trọng ǵn giữ t́nh thế cảm
động nầy. Nhưng nay, tôi phải viết
về một người với tính cách phủ
định – lại là người bạn tôi hằng quư
trọng, đă đánh giá đấy là một hào kiệt –
cụm từ không dùng quá độ, v́ ba mươi,
bốn mươi năm trước, người bạn
nầy quả có những tính chất, hành vi cao
thượng ấy. Nhưng nay thời, thế đă hoàn
toàn thay đổi, tính cách cao thượng, trong sáng
trước kia lộ mặt nên thành tính
chất giả. Cũng phải nên nói rơ, chẳng phải
v́ hôm nay anh ta đang giữ vị thế cao cấp trong
chính quyền (tất nhiên là chính quyền cộng sản
Việt Nam) nên tôi mới nói câu tán tụng như trên
để cầu thân; không phải thế, tôi đă nói
hẳn lời ca ngợi kia từ năm 1970 trong một
cuốn sách, “Aûi Trần Gian”. Tôi đă viết cuốn sách
kia để phần lớn nói về “nhân vật hào
kiệt” của ḿnh, và cũng đă chịu nhiều
khốn đốn v́ hàng chữ đề tặng nơi
trang đầu:“Tặng Phan Duy Nhân, kẻ Hào Kiệt”. Nhân
viên cao cấp Sở Phối Hợp Nghệ Thuật
Bộ Thông Tin Chiêu Hồi thời ấy đă bắt tôi
đục bỏ gịng chữ kia với lư do (mà khách quan
nghĩ ra quả t́nh chính đáng) :“Đấy
là một cán bộ cộng sản nằm vùng loại
chiến lược”. Lẽ tất nhiên tôi không chịu -
kiểu phản ứng của người “chiến sĩ
văn hóa độc lập ở Miền Nam tự do”, sống
chết cho “t́nh bạn và sự thật”(!)- Tương
tự như khi Mai Thảo phản đối Chu Tử,
khi ông Chu tố cáo Vũ Hạnh nằm vùng (mà là nằm vùng
thiệt sự hiễm độc). Mai Thảo nói lời
rộng lượng, hào hiệp: “anh em văn nghệ
với nhau đừng làm cho tụi cầm quyền nó coi
thường chúng ta!” Vâng, ở Miền Nam, có ǵ đi
chăng nữa, người làm văn hóa, văn nghệ
không hề kiêm chức cảnh sát, công an, chính ủy, cho dù
kẻ cầm đầu chính quyền đă từng nói
nịnh: “một cây bút là một sư đoàn!”, hoặc
mời đến ăn sáng, tặng bao thơ có xấp
giấy bạc năm trăm. Nếu có nhận chăng,
kẻ viết văn, viết báo ấy (cho dù viết bài
cho Bộ Thông Tin, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị
Bộ Quốc Pḥng) sau đó cũng không viết nên
những câu: “Tổng Thống anh minh Nguyễn Văn
Thiệu đă ban chỉ đạo; hoặc, Thủ
Tướng Trần Thiện Khiêm nhiệt liệt biểu
dương, khen ngợi..” (kiểu
như hệ thống “văn công, văn lại, trí
thức, học giả” ngoài Bắc, ở Hà Nội
phải viết: “phần nhập đề của Marx,
phần kết luận của Bác Hồ, xin chỉ
đọc phần giữa của tôi”, mà chúng ta đọc
tới phải đỏ mặt v́ ngượng giùm). Chúng ta quả đă thắng, thua cũng từ
“ưu-khuyết điểm tốt lành nầy”.
Chẳng phải chỉ riêng giới viết văn làm báo,
mà chung cả Miền Nam rơ ràng không biết “sợ” và
“nịnh” ai (có ai trong chúng ta đă gọi các cấp chỉ
huy ḿnh bằng cái danh tự quê kệch “ngài”, như cách mô
tả của Nguyễn Khải, Dương Thu
Hương, Bảo Ninh.. khi nói về người lính
Miền Nam “thưa, bẩm” với cố vấn Mỹ!) Khổ thay, có chăng là người Miền Nam
h́nh như chỉ “ngán Việt cộng”, bởi “không ác
độc bằng”. Thế thôi. Tôi
đă đi quá xa, nay trở lại chuyện Phan Duy Nhân: Bài
nầy cốt để bàn chuyện văn chương,
chữ, nghĩa và con người viết nên lời
thơ, câu văn ấy. Chuyện ấy là - Phan Duy Nhân không
phải là một Người Làm Thơ như tôi hằng
quư trọng, đánh giá cao suốt ba, bốn mươi
năm qua, mà thật sự trước, sau anh chỉ là một
kẻ “làm nghề cộng sản” để cầu danh,
lợi. Danh, “phó ban tôn giáo trung ương đảng”, và
lợi, số tiền 750 triệu đô-la hiện đang
thủ đắc mà cô em vợ, em bà Dương Thị
Ngân Hà đă nói cùng chúng tôi (những học sinh
Trường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng, trường
của Dinh (Phan Duy Nhân) học cùng chúng tôi thời niên
thiếu (1955-1960) nhân dịp người nầy qua Mỹ
làm ăn. 750 triệu đô la Mỹ không phải là số
tiền ai cũng có thể có được, cho dù
người Mỹ chính gốc, học vị giáo sư
tiến sĩ, chức vụ đến cỡ tổng,
bộ trưởng. Tháng Ba, 1975 để cứu viện
Miền Nam, Tổng Thống Ford cũng chỉ vận
dụng được 350 triệu của quỹ quân
viện thặêng dư với những quân trang cụ
tồn kho không xử dụng từ Đệ Nhị
Thế Chiến để lại. Chẳng
phải 750 triệu mà cho là 750 ngàn cũng không mấy ai có.
Mười năm ở Mỹ đi làm suốt từ 1995
đến nay, bán bao nhiêu đợt sách, bây giờ, tôi
cũng chỉ có được hơn hai trăm bạc
trong trương mục ngân hàng. Vậy tiền
lương của một giới chức nhà nước
ở Việt Nam lương khoảng 200 đô la một
tháng th́ lấy đâu ra số tiền quá độ lớn
lao kia? Nhiều kẻ
ở đấy c̣n có bạc tỷ- tỷ Đô-la. Cộng sản nào đây hở Karl Marx, Lenin, Bác
Hồ?!
Chúng
tôi trở lại từ đầu với khung cảnh
của bốn mươi năm trước, nơi căn
pḥng nhỏ ở Đà Nẵng...
Đem
t́nh thương dựng nên đời
Không
tro tàn bếp lạnh
Mỗi
độ xuân sang
Rộn
tiếng trẻ thơ cười..
Mắt anh rực
sáng ánh lửa nhiệt t́nh, ngọn lửa chân thật mà
người chỉ có được lúc đang tuổi
trẻ - ngày chưa bị vướng bận bởi
những hệ lụy, lo toan, mưu định bẩn
chật của cuộc sống - khi đọc những
lời thơ đằm đằm cảm xúc. Những câu
thơ của Thủy Thủ (Trung Uùy Thái Trần Trọng
Nghĩa, Binh chủng Biệt động quân, khoá 14
Trường Vơ Bị Đà lạt, theo viên chỉ huy,
Đại Uùy Phan Lạc Tuyên trốn vào mật khu cộng
sản sau biến cố quân sự 11 tháng 11, 1960 do Trung tá
Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu
Hồng cùng một nhóm sĩ quan xử dụng lực
lượng nhảy dù đảo chính, lật đổ
chính phủ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm),
đăng ở trang đầu số Xuân Nguyệt San
Chỉ Đạo của Cục Tâm Lư Chiến QLVNCH
được Dinh đọc to thêm lần thứ hai, tóc
anh x̣a xuống trán, những ngón tay đưa lên, run rẩy
cảm xúc, nhiều kịch tính.. Đám chúng tôi, tuổi 16,
17 ngồi nghe, nh́n anh thán phục, chen
lẫn tự hào. Có thể nào như thế, là con của
một gia đ́nh nghèo, nghèo nhất trong các bậc thang xă
hội, cha gác cổng xe lửa, mẹ bị bệnh lao
phổi thời kỳ cuối cùng, em bị chứng
tật nguyền bẫm sinh không ngồi dậy
được..Thế tại sao trong
cảnh khốn cùng nầy, con người bản lănh kia
vẫn không hề có chút mặc cảm, suy sụp bởi
khốn khổ của thân phận, gia đ́nh; anh tự
học thêm Pháp văn để dịch cuốn Condition
Human của André Malraux, đọc, viết nên những
lời thơ bừng bừng sức mạnh cao
thượng nhân bản...
“.... Độc lập, ḥa b́nh,
công bằng, nhân đạo
…
Ṇi giống Việt
thương yêu đời sống Việt
Triệu con người
vươn lên từ cơi chết
Yêu anh em, yêu xă hội công
bằng
Người yêu người
xây dựng đến muôn năm”
(Tiếng
Hát của Người Đi Tới)
Những
câu thơ như trên chỉ được h́nh thành từ
trái tim chân thật của tuổi
mười-tám; và cũng chỉ với một lần
hai-mươi trong sáng, người mới có thể
viết nên lời cảm xúc hào hùng như sau:
“... Vẫn c̣n đó anh em hàng
triệu đứa
Yêu thương nhau cùng mở
rộng ṿng tay
Khi chết đi tim người xin để lại
Anh mang theo
khoảng trống lấp không đầy
Thân băng hoại nhưng
niềm tin hiện hữu
Cùng tui em đi đốt
lửa mặt trời
Chúng ta sống bằng máu
người đă chết
Người nối
người dĩ văng nối tương lai
V́ trên mặt đất nầy
cây đă mọc
V́ hoa đời anh hái cả
hai tay
Nên cuộc sống khác ngày
giờ hư viện
Vô duyên như giấc mộng
chẳng tṛn đầy
..
Thân xác ấy thôi rồi tan ră
hết
Vào hư vô không giọt máu
hồng tươi
Tôi đă dặn khi giă từ
cuộc sống
Nhớ cho tôi xin lại trái tim
người ”
(Trái
Tim C̣n Lại)
Phan Duy Nhân không
chỉ “làm cách mạng” với chữ nghĩa, anh hiện
thực nên hành động với chính máu của ḿnh và
bằng hữu, Nguyễn Văn Thụy, Trần Quang Long,
Ngô Kha (em rễ Trịnh Công Sơn), và một lớp
tuổi trẻ của Đà Nẵng-Huế trong suốt
những năm từ 1963, qua 1966, đến Mậu Thân,
1968. Anh đóng góp phần lớn nhất, cụ thể
nhất, sớm sủa hơn bất cứ ai với xác
thân bị đánh dập, cùm xiềng, lâm cảnh tù tội
khắc nghiệt cho cuộc đấu tranh của phía
cộng sản (ngụy danh dưới những phong trào
nhân dân ở Miền Trung, mà cao điểm là lần
bạo loạn ly khai chính phủ trung ương Sàig̣n, Mùa
Hè 1966). Và thán phục biết bao khi chứng kiến
cảnh anh bị bắn ngă lần dẫn đầu
đám biểu t́nh xông ra từ chùa Tĩnh Hội, Đà
Nẵng, mùa Hè 1966, rồi dẫu bị thương,
bị đánh găy cạnh sườn, anh cũng không
chịu khuất phục chào cờ Vàng Ba Sọc
Đỏ; cuối cùng nhân cơ hội được
nằm nhà thương, anh cố trốn thoát, nhưng
bị bắt lại, và đày đi Côn Đảo.
Nửa đêm cởi áo
lội qua hào
Cớ sao tư bản bắn
người cần lao?!
Nên dẫu là người
đối nghịch toàn diện với anh qua tất
cả mọi vị thế- người lính quân
đội cộng ḥa - người viết văn nơi
vùng đất quốc gia - nhưng quả thật, tôi
vẫn hằng kính phục anh như trong ngày thơ dại
khi nghe anh đọc những gịng thơ cách mạng, thúc
dục con người xuống đường dựng
ngọn cờ chính nghĩa.
Tuy nhiên, tôi vẫn “tin một
điều” và “không tin một điều” mà không hề nói
ra.
Đấy
là,
Tôi
không tin rằng: Anh là người cộng sản thuần
thành mà chỉ là người mang nhiệt t́nh vào cuộc
đấu tranh cho độc lập, ḥa b́nh, công bằng,
nhân đạo, để anh em, bằng hữu yêu
thương nhau, thế hệ trẻ thơ chào đón
tương lai vui ḥa ấm áp. Cảnh
tượng lư tưởng mà thơ anh đă viết nên
lời. Và,
Tôi
tin rằng: Cuộc chiến đấu của chúng tôi -
Lực lượng Cộng Ḥa Dân Chủ là là cuộc
chiến Chính Nghĩa cho dẫu bị xuyên tạc, mạ
lỵ đến thế nào, kể
cả lần kết thúc nếu không may thất bại,
hoặc phải chịu cái chết. Phải, chúng tôi
Người Lính Cộng Ḥa, là lực lượng của
“Độc Lập- Ḥa B́nh-Công Bằng-Nhân Đạo”,
chứ không phải lực lượng của phía anh –
những người cộng sản.
Hai
điều trên có vẻ đối nghịch, khó dung
hợp được cùng nhau, và quả t́nh, tôi cũng
không mấy chắc chắn vào điều tin tưởng
thứ nhất, dẫu luôn nhắc nhở-anh là bạn tôi- người
bạn thời niên thiếu, người đă sống cùng
nhau thật dạ thương yêu, tin cậy như “trái tim
c̣n lại”, không thể mang đi theo cùng cái chết.
Tôi
chưa có cơ hội để nói với anh điều
trên th́ xẩy ra kết thúc 30 tháng Tư, 1975, và câu trả
lời cho hai vấn đề trên cùng lần
được giải tỏa: Anh là một người
làm thơ gian lận với chữ nghĩa của ḿnh. Tôi tiếp chứng minh sau đây.
Không
cần phải đợi đến ngày 30 tháng Tư, 1975,
chỉ một ngày sau khi mất Đà Nẵng, đầu
tháng Tư, 1975, Phan Chánh Dinh, hay Phan Duy Nhân, nay là Nguyễn Chính đă
xuất hiện ngay tại những cơ sở cộng
sản nằm vùng ở Đà Nẵng, cho gọi những
người mà mười-lăm năm trước anh
đă giao t́nh quen biết. Qua nhân sự của cơ sở
nầy, Dinh ra lệnh Trần Gia Phụng (hiện ở
Toronto, Canada giáo sư Phan Châu Trinh, cũng là học sinh
của trường, niên khoá trước 1960, cùng thời
với Dinh, và chung lớp với tôi) phá kho thuốc của
Hội Hồng Thập Tự cơ sở Đà Nẵng.
Đúng tác phong nhà giáo, gốc cương trực Quảng
Nam, Phụng từ chối với lẽ:“Kho thuốc
Hồng Thập Tự chỉ xuất ra trong trường
hợp khẩn cấp theo lệnh từ Sài G̣n; nay chỉ
mới mất Đà Nẵng mấy ngày, tôi không thể
muối mặt làm trái lẽ được.” Không phải
đợi chờ lâu, 1 tháng 5, Dinh ra mặt công khai, chủ
tŕ buổi họp toàn bộ trí thức, giáo chức,
những người làm công tác văn hóa của thị xă
với tư cách Ủy Viên Văn Hóa Khu Ủy Quảng Nam
- Đà Nẵng (Dinh được trao trả theo
điều khoản Hiệp Định Paris, tháng 3, 1973
tại Lộc Ninh-Người trao trả chính lại là
bản thân tôi chứ không ai khác). Trong buổi họp,
Phụng có đưa câu hỏi liên quan đến t́nh h́nh,
và nhân sự của thời buổi mới: “Giả sử
như anh bắt được Phan Nhật Nam th́ sao?”
Phụng muốn ḍ xem sự thay đổi nơi con
người nầy, bởi anh cũng như nhiều
người thuộc lớp tuổi ở Đà Nẵng
đều biết mối thâm t́nh giữa tôi và Dinh từ
bao năm trước. Không ngần ngừ, Dinh trả
lời:“Đối với trường
hợp như Phan Nhật Nam là Giết! Giết! Giết!” Chữ “giết” được nói
lên rơ ràng dứt khoát. Sau nầy, nghe Phụng kể
lại, tôi biết bạn nói thật, nhưng quả t́nh
không muốn tin rằng nội dung kia có
tính chắc chắn- đấy chỉ là câu nói bề
mặt như khẩu hiệu tuyên truyền. Có
ai nỡ giết bạn bao giờ?! Năm 1995,
Nguyễn Bá Trạc khi viết lại chuyện nầy,
cũng tỏ ư nghi ngờ câu nói ghê gớm và vô ích kia. Giết để làm ǵ
mới được chứ? Trần Gia Phụng
kể thêm chi tiết: Sau buổi họp anh được
lưu dung-cho ở lại trường, nhưng chỉ
được làm công tác “lưu dung”- có nghĩa, văn
bằng Đại Học Sư Phạm của anh chỉ
xứng với chức năng của một lao công.
Chưa hết, Dinh kêu Phụng vào văn pḥng “làm việc”
với lời “răn đe”: “Mặc dù anh với tôi có
“biết” nhau từ trước, nhưng nay t́nh thế
đă thay đổi..” Dinh
nhấn mạnh chữ “biết”. Anh ta vốn là
người có tài ăn nói, rất
biết cách ăn nói. Không đợi Dinh hết lời,
Phụng ngắt ngang: “Vâng, anh với tôi có “biết” nhau
từ trước, nhưng tôi cũng rất hiểu rơ
vị thế bây giờ, tôi có đủ liêm sĩ
để không cậy vào sự “biết” trước kia.”
Khi đi ra cửa, Phụng nghĩ thầm: “Đến
thằng Nam mầy c̣n đ̣i giết huống ǵ tao!” Anh chấm dứt vấn đề bằng
nụ cười nhanh, nhẹ, kín đáo của riêng ḿnh,
bởi hiểu sau lưng anh cặp mắt đang dựng
đứng tṛng căm tức, phẫn nộ.
Dinh
không chỉ biểu lộ uy quyền ở Đà Nẵng, với
những người quen biết, anh ra công truy lùng viên
cảnh sát đă khảo cung anh ngày trước. Cuối
cùng, Dinh t́m được tung tích
người nầy tại một trại tỵ nạn
ở Long Khánh. Một ngày, Dinh, đồng chí trung
ương Nguyễn Chính dừng xe command car trước
cửa căn lều của người nầy,
bước xuống với hai cận vệ súng AKA cầm
tay.. Cả gia đ́nh người
cảnh sát, vợ, các con, những đứa cháu nhỏ
đồng nằm bẹp xuống đất chắp tay lạy van xin tha tộâi. Hai người
cận vệ đưa ṇng súng nhắm vào đầu
đám người nằm dưới đất, trẻ
con lẫn người lớn. Người tranh đấu
Phan Chánh Dinh, thi sĩ Phan Duy Nhân, Phó Ban Tôn Giáo Trung
Ương Đảng Nguyễn Chính đưa tay lên ra
lệnh hạ ṇng súng. Anh nói lời tha tội, cao cả chen lẫn khinh miệt. Cách khinh miệt
của một “chiến sĩ cách mạng” đối
với bọn ngụy quân, ngụy quyền hèn hạ.. Khi được thế th́ hống hách,
tàn ác, khi thất thế sẵn sàng tuôn lời quỵ
lụy, van xin. Cả gia đ́nh người cảnh sát
quỳ xuống lạy tạ thêm lần nữa cho
đến khi xe Nguyễn Chính đi
khỏi. Chuyện kể theo mô tả trong bài viết
của Nguyễn Chí Thiệp (Houston,Texas) đăng ở
Tập San Kỷ Niệm 50 Phan Châu Trinh; Thiệp ngồi
cạnh Dinh suốt sáu năm ở trường; qua bài
viết, Thiệp đặt thêm cho Dinh nhiều vấn
đề như, “liêm sĩ của người cầm bút;
khí tiết bản lănh của người làm cách mạng..”
Nhưng thôi, tôi nghĩ đă quá đủ,
Dinh không có khả năng trả lời được.
Ngày
tôi đi tù về, khoảng giữa năm 1991, Hồ Thành
Đức (cũng người Đà Nẵng, đồng
quen thân với Dinh và tôi) có chuyển giao cho một thiệp
cưới của Phan Triều Dương (con gái Phan Duy
Nhân), nhưng không viết thêm một chữ nào. Tôi hiểu
ư của hành vi nầy: “Anh muốn chối từ một
người bạn- nói rơ hơn anh “sợ” phải gặp
người bạn cũ - bởi Chính Nghĩa thuộc
về Chúng Tôi- Những Người Lính bị thất
trận.” Tôi trao trả (qua Hồ Thành
Đức) tấm ảnh anh tặng hồi 1959; cũng
không một chữ viết trở lại. Cộng
tất cả câu chuyện vừa kể trên cùng số
tiền 750 triệu Mỹ Kim mà cô em vợ của Dinh
vừa khoe ra trong phần nhập đề trên, tôi có
những kết luận cuối cùng như sau:
Hóa ra, Phan Chánh Dinh chẳng phải là
“người cách mạng”.
Anh lại càng không phải một
“người làm thơ”, mà thật sự chỉ là kẻ
“hành nghề bạo lực” một cách kiên tŕ và tài
giỏi. Anh “không để lại trái tim”
mà chỉ trải dài lềnh lầy dối trá, tàn nhẫn
vô nhân tính. Chẳng kể đến tôi, người
bạn mà anh đ̣i giết đến tận cùng; mà qua cách
đối xử với người cảnh sát mang
“tội” hỏi cung anh ở
Ty Cảnh Sát Đà Nẵng năm 1966. Điều gọi
là “tội lỗi” của viên cảnh sát ngày xưa kia có là
ǵ so với “thành tích” của Bộ Công An trực thuộc
Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng Hà Nội-
Tổ chức đă dựng nên những kỳ tích:
“Khoảng 8000 nạn nhân với 3, 653 làng bị tàn phá
của đợt đấu tố 1953 ở nông thôn
Bắc bộ(*); toàn thể thị dân Miền Bắc, Hà
Nội thụ nạn đợt cải tạo
công-thương-nghiệp 1957; hai chục triệu dân
Miền Nam tiếp bị lưu đày, thanh trừng liên
tục qua các đợt “tập trung cải tạo 1975”;
“đánh tư sản-mại bản 1978”; đợt
“cải tạo công-nông-thương nghiệp xă hội chủ
nghĩa năm 1986”.. Và cuối cùng, HAI
TRIỆU NGƯỜI VƯỢT BIÊN VỚI SÁU TRĂM NGÀN
NGƯỜI CHẾT TRÊN BIỂN, NƠI RỪNG SÂU BIÊN GIỚI
THÁI-MIÊN. Đấy là chưa kể những
người chết trong chiến tranh, điển h́nh
ở Quảng Trị, nam La Vang, quê hương anh và tôi -
chết bởi đạn sơn pháo 57 ly do bộ
đội sư đoàn 308 miền Bắc bắn thẳng
lên mục tiêu – đám dân
chạy loạn về Huế trong ngày 29 tháng 4, 1972. Tôi có
thể kể thêm hằng hà người chết, toàn là
thường dân, gồm đàn bà, trẻ con, người
già ở Xa Cam, An Lộc; hoặc ở Huế nằm 1968,
phía chân núi Ngự B́nh, bên kia Cầu Bạch Hổ, chỗ
anh ngồi nh́n xuống gịng sông mờ khói để làm
thơ.. Ṇi giống Việt thương yêu
đời sống Việt. Vậy,
Việt nào đă tận diệt Việt nào? Chẳng
lẽ có một “thứ Việt của thi sĩ
Phan Duy Nhân, và một loại Việt khác đáng phải
giết bỏ cho công danh của phó ban Nguyễn Chính?”
Và người viết văn, Huynh Trưởng Nguyễn
Mạnh Côn bị kiên giam, bỏ đói, chết với
tiếng kêu thương đau, khắc khoải lịm
dần.. Khát quá! Khát quá! vang
vọng suốt đêm nơi Trại Z 30D, Hàm Tân, Thuận
Hải th́ do những tội ǵ? Có ở
đâu trên thế gian đă kết tội, giết bỏ
con người bởi chữ viết với chủ ư nhân
đạo hay chăng? Chúng tôi quả đă kiệt
lực dưới khối nặng tàn nhẫn của
Sự Aùc tồi tệ gọi là Xă Hội Chủ Nghĩa,
nên đến lúc phải chấm dứt với lời mô
tả cuối cùng của Trần Vàng Sao..
chân tay ră
rời
đầu óc đau
nhức
không muốn
làm chi hết
..
dụi mắt
nghĩ hết chuyện nầy chuyện nọ
nói chi
những đứa đă chết trên rừng ngoài phố
bạn bè có
đứa giàu có đứa nghèo
đứa ngụy
đứa cách mạng
đứa tiền
của ăn tiêu mấy không hết
đứa không có cái
áo lành
đứa đi kinh
tế mới ba bảy tám năm trở về
xách cái bị
lát mặt cắt không c̣n hột máu
đứa
đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ
sắn chở khách ở bến xe
đưá vô tích
sự ở nhà không có việc chi làm
đứa râu tóc dài
che kín mặt
có
đứa tàng không nhớ ḿnh tên chi
có
đứa chịu không nổi dắt vợ con vào Nam
ăn đường ngủ chợ
…
hết chuyện
nói
(Người đàn ông 43 tuổi nói về ḿnh)
Dinh,
anh phải nhớ Trần Vàng Sao, v́ đấy là
người cùng anh, Hoàng Phủ Ngọc Tường, HPN
Phan, Nguyễn Đắc Xuân.. dựng
nên tờ Việt Nam ! Việt Nam ! Tờ báo đốt ngọn lửa “chống
Mỹ cật lực” của thanh niên, sinh viên, trí thức
Huế mùa Hè ngày 1966. Anh cũng phải biết về
cảnh tượng “xă hội xă hội chủ nghĩa“ mà
Trần Vàng Sao mô tả, bởi nó không lạ với anh và
tôi- Đấy là Thành Phố Huế, nơi anh đă sinh ra,
lớn lên, và làm cách mạng với mục đích
“độc lập-ḥa b́nh-công bằng-nhân đạo”. Tôi
không thể viết hoa những từ nầy nữa v́ anh
và những người cộng sản đă dùng chúng
với ư nghĩa, chủ đích tàn tệ ác độc-để
ngụy trang việc giết người do “tội”
kết từ gịng chtữ vietá. Các thầy dạy anh và tôi
ở Đà Nẵng, như Tôn Thất Tạ, Nguyễn
Văn Tường, Trần Ngọc Quế, Trịnh
Thể.. đồng bị thảm sát
bởi bộ đội, công an cộng sản. Thôi, coi
như đó là những người “có tội”- “tội” do
đă dạy anh nên người!
Thi Sĩ hằng Sống.
Tận
đêm đen đe dọa khinh miệt,
Thơ sáng bừng ánh Lửa Từ Bi che chở. Giữa
ngục tù độc ác, Thơ dịu
dàng âm âm tiếng Chuông Nhân Aùi đổ dài theo buổi
chiều êm ch́m bóng nắng. Quanh trùng vây núi thâm hiễm
đọa đày, Thơ cúi xuống vỗ về như
gịng nước xanh trong vắt con suối đổ
gợi lên giọng đàn xưa muôn măi âm vang..
Thơ Vô Lượng bởi Thơ
viết từ T́nh Thương Con Người bất
tận - Thơ Tuệ Sĩ.
Tôi cậy
đến những lời Thơ trong như ngọc
kết của Tuệ Sĩ v́ Người là nạn nhân
đầu tiên, đối tượng cần phải
bị tiêu diệt toàn diện bởi chính sách của Ban Tôn
Giáo Trung Ương Đảng mà mặt trận phía Nam
thuộc vào tay Nguyễn Chính, người làm thơ tên
gọi Phan Duy Nhân. Và những lời Thơ sau đây là
chứng cớ mà người cộng sản đă nại
ra để thực hiện lần buộc tội man
rợ nhất suốt nhân loại chưa từng chứng
kiến – Dẫu chế độ cầm quyền u
tối, tàn bạo đến thế nào...
Tôi vẫn đợi những
đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven
rừng
Trong bóng tối hận thù tha
thiết măi
Một v́ sao bên khoé miệng
rưng rưng
Tôi vẫn đợi một
đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt
tự ngàn xưa
Nh́n hun hút cho thêm dài lịch
sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha
Tôi vẫn đợi suốt
đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi
ngược Thái B́nh Dương
Người ở lại
với bàn tay bạo chúa
Cọng lau gầy chĩu
nặng ánh tà dương
Rồi trước mắt
ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gơ
nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi
về cơi mộng
Như
sương mai như bóng chớp mây chiều.
Có thể nào như thế? Có thể nào Con Người bị
kết tội từ Thơ? Có thể
nào Con Người bị nhận ch́m tận đáy của
sự chết do “lỗi có ḷng yêu người” - Sự
chết có thật với bóng đen tù ngục vây chặt trùng
trùng núi đá thẫm xanh âm u nghiệt ngă. Sự chết có
thật vào năm thứ mười, năm thứ hai
mươi đối diện, đương cự
với cách khinh miệt toát ra từ những tṛng
mắt chó đá, những khuôn mặt hận thù vô nhân tính
như kết bằng giấy bồi cứng không cảm
xúc - Bởi nếu là người c̣n có một phần nhân
tính, xúc động nhỏ nhoi th́ không ai nỡ xuống tay
giết Người v́ tội từ những gịng Thơ?
Nhưng Người vẫn dũng mănh im lặng và kiên tŕ
chờ đợi. Người không Chờ
Thượng Đế siêu h́nh, Người Chờ với
Nỗi Đau có thật. Nỗi Đau
không c̣n hơi sức để khóc mà phải cậy
đến giọt lệ ứa sắc sao xanh đọng
trên khoé miệng hấp hối. Đau làm vỡ
khối đen biền biệt kín dày che lấp toàn phần
vũ trụ - Khối đen vô hạn của Sự
Chết. Nỗi Đau khi Con Người bị hũy diệt
lớn hơn sự vô cùng của cái Chết. Và cuối
cùng, Người vượt sống, Phục Sinh cùng
Thơ - T́nh Yêu: Suối nguồn hoan lạc, sức
mạnh vô vàn,
Nhưng ánh mắt không căm
thù lửa đỏ
V́ yêu em trên cây lá đọng
sương mai
Tuy cuộc chiến
đấu bi tráng, khắc khoải, luôn cận kề,
tiếp giáp, thấm đẫm sự chết nhưng không
hề tuyệt vọng- Bởi đấy là cuộc
chiến đấu vinh hiển bảo vệ giá trị
vĩnh cửu quyền xứng đáng làm người,
Anh chiến đấu
nhọc nhằn như cỏ dại
Thoảng trông em tà áo mơng vai
gầy
Ôi hạnh phúc anh thấy ḿnh
nhỏ bé
Chép t́nh yêu trên trang giấy
thơ ngây
Đời lữ khách biết
bao giờ yên nghĩ
Giữa rừng khuya nằm
đợi bóng sao Mai
Cuộc
chiến đấu nầy kéo dài như bất tận v́
oan khiên thay, Sự Aùc h́nh như luôn đến trước
Tính Thiện mà người trung chính hằng phải
chịu cảnh nghiệt cùng,
Mười năm sau anh
băng rừng vượt suối
T́m quê hương trên vết
máu giữa đồng hoang
..
Và ngày ấy anh trở về
phố cũ
Giữa con đường c̣n
rợp bóng tang thương
Nỗi
xót xa nầy- xót xa khi con người-thi sĩ bị vùi
dập, khinh miệt- không phải bởi bứt ĺa
giữa “quê nhà- và chốn lưu đày”, nhưng nơi
đây t́nh cảnh thống thiết hơn bội phần
v́, “lưu đầy ngay trên chính quê hương ḿnh”. Người bị đuổi ra khỏi nhà-
lưu vong trên quê hương máu thịt của ḿnh.
Đấy là mối đau của Tô
Đông Pha “tự ḿnh tiễn ḿnh” lên miền Bắc
buốt giá,
“..Suy ông tống khách thủy
biên thành
Sa thấu
mă đề ô mạo điểm
Ngang đầu vấn khách
kỷ thời quy
Khách đạo thu phong
diệp lạc phi..”
..Già nầy tiễn khách ven
sông
Xe lăn
ngựa hí rung rung mũ huyền
Ngững đầu hỏi
sự hồi viên
Khách cười lá rụng ta
liền gặp nhau
(Thày
C̣ phóng dịch)
Vâng, chỉ có một tiếng
cười nhẹ tênh mà thôi để trả lời cho
câu hỏi ai oán “bao giờ gặp nhau?”- Biết bao giờ gặp nhau(?), bởi lưu đày đây là lưu
đầy “thân ta trên chốn nhà ta!” nên có đi Bắc, hay
về Nam tất cả cũng đă là vô ích,
Nam lai bất giác tuế tranh
vanh
Dạ bán hàn hôi thính vũ thanh
Già nhăn văn thơ nguyên
bất độc
Bạn nhân đăng hỏa
diệc đa t́nh
..Về Nam bất chợt
thấy đơn côi
Đa t́nh đèn lửa
bạn như tôi..
(Thày
C̣ phóng dịch)
Tất
cả đă là vô ích, t́nh cảnh như trước khi
đi vào Mười Tầng Địa Ngục của
Dante: Before Me Nothing But Eternal Things
Were Made, And
I Shall Last Eternally
Abandon Every Hope, All You Who Entered
Trước Địa
Ngục, Tất Cả đă trở nên Vô Nghĩa
Chỉ riêng Ta- Nguồn
Thống Khổ Muôn Đời
Người bước vào -
Hy Vọng vỡ tiêu tan!
(pnn phỏng dịch)
Người
Việt với khổ nạn miên viễn của hơn
nửa thế kỷ qua đă không ngại đến
cảnh địa ngục đáng sợ kia nữa,
bởi mỗi người đă hoàn tất nên phần
địa ngục của riêng ḿnh với những tháng ngày
kinh hoàng im lặng mà Tô Thùy Yên đă viết ra qua chữ
nghĩa thản nhiên cào xé đến kỳ lạ,
Ta về qua những truông cùng
phá
Mười năm mặt
xạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn
cổ sơ
(Ta
Về)
Cảnh tượng
nh́n mặt ḿnh qua gịng khe nước không phải do từ
một trí tưởng tượng được thi ca
hoá, nhưng là một động tác tự nhiên của
rất nhiều người, những cô gái mặt sáng
đẹp như tranh tượng, mẫu người Hà
Nội thanh lịch c̣n sót lại sau đợt tổng càn
quét tháng 10, 1954 đày toàn thể ngụy quân, ngụy
quyền, những người có đôi chút tài sản
của nơi chốn văn vật hào hoa nầy lên vùng núi
non Tây-Bắc. Những cô gái sinh ra ở năm tháng khắc
nghiệt kia, lớn lên giữa núi rừng Hoàng Liên Sơn
cho đến khi những người tù Miền Nam ra
đến nơi 1976, mới
biết rằng trong cuộc sống có những vật
dụng dành riêng cho thiếu nữ, đàn bà như quần
áo lót vải mỏng mềm, áo dài, xà pḥng thơm,
nước hoa.. Họ mới biết rằng bài hát
tuổi trẻ không phải để ca tụng những
kẻ cầm quyền cằn cỗi ở Hà Nội,
nhưng nói về một t́nh yêu trai gái..
Nếu không có một lần
Một lần như đêm
nay
Sau phút giây
Eâm đềm trên ghế
đá
Anh không cài khuy áo ngực cho em..
(Dư
Thị Hoài, Văn Nghệ số 7 tháng 5, 1988)
Phải
mất đến ba mươi bốn năm từ 1954
đến 1988, những người tuổi trẻ
miền Bắc mới hoàn tất nụ hôn và cởi
được khuy áo ngực người t́nh! Đau
thương thay và cũng uất hận siết bao!
Nhưng chúng ta không hề tuyệt vọng- Bởi Thi
Sĩ không bỏ cuộc T́nh Yêu Người, dẫu xác thân
tan vỡ bởi đọa đày, dẫu tóc sương
nhuốm bạc màu cằn cỗi,
Mười
năm đó anh quên ḿnh sậy yếu
Trên
vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh
cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản
T́nh Ca vô tận của Đông Phương
Bản
T́nh Ca vô tận cũng là Tuyên Ngôn Yêu Thương của
Trái Tim Bất Hoại Bồ Tát mà Con Người hiện
thực từ Khổ Nạn Nhân Sinh, từ Nỗi Đau
Dân Tộc với Lời Thơ Bất Diệt.
Cuối cùng, Người-Tuệ Sĩ
luôn Sống-Chiến Đấu-HyVọng trên cuộc
lữ miên viễn với tấc ḷng Thi Sĩ, của trí
tuệ Tiên Tri.
Hoá
ra, cội nguồn của Đạo, tất cả
trường phái Triết Học, công tŕnh Văn Học,
Nghệ Thuật chỉ có giá trị đích thực khi
chạm đến tận cùng Mối Đau.
(*)Spencer Tucker, The Encyclopedia of
the Vietnam WAR, Oxford University , NY 2000 p219
Tháng
12, 2002
Khi chạm đến tuổi Sáu
Mươi.