MỘT GIAI ĐOẠN NGẬM NGÙI

 

Hồi kư của Phan Xuân Sinh

 

 

 



Phần 1


Cũng như phần đông các sĩ quan miền Nam, sau 75, tôi cũng phải đi tŕnh diện, mặc dù tôi đă bị thương (mất một bàn chân phải trong trận chiến mùa Hè Đỏ Lửa 1972 tại Quảng Nam). Bởi v́ tôi cứ kéo dài t́nh trạng tại ngũ để được ăn lương, không chịu ra hội đồng giải ngũ sớm. Mỗi khi chuẩn bị đưa tôi ra hội đồng, tôi lại khai c̣n đau chỗ nầy, đau chỗ nọ nên nằm măi tại Trung Tâm I Hồi Lực, được 29 ngày tái khám. Tính trạng kéo dài năm nầy qua năm khác…Đến khi tôi vào Sài G̣n mới chuyển qua Trung Tâm III Quản Trị, chờ ngày ra Hội Đồng để lượng định mức độ tàn phế th́ quá muộn. Quân Giải Phóng đă cận kề Sài G̣n. Như vậy sau 30 tháng 4, trên danh nghĩa tôi vẫn c̣n tại ngũ, nhưng trên thực tế tôi là một phế binh.

 

 Khi tŕnh diện tại trường trung học kỹ thuật Don Bosco (G̣ Vấp), tôi bỏ chân giả ở nhà, đi bằng nạn gỗ đến tŕnh diện Ủy Ban Quân Quản. Cuối ngày họ gọi tôi lên cấp cho một cái giấy chứng nhận có tŕnh diện, cho về lại địa phương quản lư (v́ phế binh), khi nào có lệnh gọi đích danh tôi mới đi cải tạo. Như vậy, họ thấy tôi trở ngại quá cho việc tập trung cải tạo, nên đựơc cho về là v́ vậy.


Yên tâm về chuyện không đi cải tạo, lúc bấy giờ tôi mới lo đến chuyện kiếm cơm sống qua ngày. Tôi và hai thằng bạn khác ra ngoài chợ trời Trương Minh Kư (Trương Minh Giảng nối dài), thuê một chỗ kê một cái bàn nhỏ, mua bán các các đồ vật dụng cũ mà khách hàng chính lúc đó là các lính bộ đội miền Bắc mới vào Sài G̣n c̣n rất ngu ngơ, chưa biết đường đi nước bước. Một cái đồng hồ không người lái, một cửa sổ trị giá 30 đồng bán ra gấp ba, bốn lần (lâu quá không c̣n nhớ giá cả lúc ấy), hàng bán như tôm tươi: Radio, quạt máy, bàn ủi điện, đồng hồ, máy may, v.v…không có món ǵ mà ế ẩm hết. Tốt, xấu, cũ, mới, mang ra là bán được ngay lập tức. Tiền lúc ấy vô dễ quá mà đầu ra cũng dễ như vậy.

 

Bạn bè của ba đứa tôi, từ miền Trung chạy vào thất tha thất thểu, đói lên đói xuống, tứ cố vô thân, gặp nhau giữa cái đất Sài G̣n phải giúp nhau thôi. Chết th́ chết chùm chứ không thể bỏ được. Ban ngày tản mác đi khắp nơi, đến 12 giờ trưa tập trung lại chừng hai chục thằng khố rách áo ôm. Mỗi thằng đến tiệm cơm b́nh dân gần đó lănh một dĩa cơm sườn, một điếu thuốc, một ly trà đá,(thật t́nh tụi tôi thấy bạn bè đói rách quá tự nguyện làm chuyện nầy). Đến chiều tối trước khi dọn dẹp ra về, tôi mang tiền qua trả cho chủ tiệm cơm b́nh dân ấy. Cầm cự được vài tháng như vậy th́ hết vốn, tiền lời không đủ nuôi chừng đó miệng ăn, hơn nữa lúc sau không c̣n bán đắc hàng như lúc trước. Thêm vào đó, công an áo vàng đuổi không cho tập trung buôn bán bên lề  đường nữa (lần đầu chúng tôi mới thấy bộ đồ vàng của công an), đành dẹp tiệm. Bạn bè tản mác, mỗi thằng phải tự lo thân, không dựa vào nhau được.


Sáng nào ba thằng bán chợ trời chung, cũng gặp nhau ở tiệm cà phê, bàn tính chuyện làm ăn khác. Nhưng bí, không t́m ra phương cách sống, tiền th́ không c̣n. May cho tôi, Ba tôi từ Đà Nẵng vào t́m v́ không biết tin tức của tôi sống chết ra sao. Ba tôi bảo phải về Đà Nẵng sống với gia đ́nh. V́ hơn ai hết, Ba tôi biết tôi là một phế nhân, không thể đi cày, đạp xích lô, đi lao động được. Về với gia đ́nh đùm bọc lẫn nhau, có mắm ăn mắm, có muối ăn muối, nhưng tôi không chịu, với lư do đơn giản là ngoài đó khó sống, những người thắng trận quá sắt máu, d́m những thành phần thuộc diện sĩ quan như tụi tôi đến chết, bắt tụi tôi tay không đi gỡ ḿm đủ toi mạng rồi (bao nhiêu đứa bạn không chết trong chiến tranh, nhưng đă chết v́ đi gỡ ḿn trong lúc ḥa b́nh).  Dù sao th́ ở Sài G̣n cũng dễ thở hơn. Những đêm nằm ngủ với tôi, ba tôi nhận thấy điều tôi tŕnh bày chí lư.

 

Một buổi sáng ông dậy sớm, pha trà rồi gọi tôi dậy để cha con nói chuyện, trước khi ông về lại quê nhà. Ông trao cho tôi một cái đăy nhỏ trong đó chứa ba lượng vàng, đây là số vàng dành dụm suốt một đời đi dạy học của ông. Tôi đưa Ba tôi ra xe đ̣, ḷng tôi trĩu nặng. Lúc đó tôi mới thấy thương ông, với số tuổi đă cao mà không c̣n nghĩ tới bản thân vẫn lo lắng cho con dù con đă lớn rồi. Xe đ̣ rời khỏi bến, nh́n theo Ba, tôi rưng rưng nuớc mắt, đến khi xe chạy khuất, tôi mới đạp xe trở về.


Hồi đó hàng tiêu dùng đă bắt đầu khan hiếm, bao nhiêu hàng hóa trong Nam đều chở ra Bắc, tạo nên một lỗ hổng to lớn. Không biết ai gợi ư, tụi tôi bắt đầu làm xà bông bột. Ba thằng đều thuộc loại có vấn đề với chế độ mới, là cựu sĩ quan “ngụy quân”, giấy tờ tùy thân không có, hộ khẩu không có, phải t́m một thằng có lư lịch “cách mạng” để đứng mũi chịu sào. Người đó là bạn của một người bạn tôi, trước năm 75 cũng làm xà bông nhưng sạt nghiệp, có một lư lịch tuyệt vời là trốn quân dịch, cha tập kết. Đúng với mong ước của tụi tôi. Mỗi đưa hùn vốn ba cây vàng. Anh Hùng (người bạn mới)  không có tiền, nhưng có bộ khuôn in bản hiệu trên bao nylon đựng bột giặt hiệu Bạch Long, xem như góp vốn. Anh Hùng đứng ra xin giấy phép sản xuất tại số 212 Bạch Đằng, Phường 24, quận B́nh Thạnh (Căn nhà nầy lúc đầu thuê, sau tụi tôi mua luôn).


Chúng tôi xem như làm một canh bạc lớn trong đời. Tôi có biết sơ qua cách làm bột giặt v́ có học của một người bạn, nhưng chỉ có ư niệm sơ sơ thôi. Thế nhưng khi bốn thằng họp nhau lần cuối để quyết định, để các bạn tin tưởng, tôi quả quyết là tôi làm được bột giặt. Chính lời hứa ngu xuẩn nầy làm cho tôi mất ăn mất ngủ mấy tháng trời. Tôi cũng đi mua hóa chất về làm y như người bạn chỉ dạy trước đây, thế nhưng bột giặt của tôi làm ra như một thứ cháo đặc, không phóng thích nước ra được. Tôi ṃ mẫm đêm nầy qua đêm khác, đi hỏi những người chuyên môn về hóa chất, lượm lặt ư kiến mỗi người mỗi ít.

 

Tôi không dám làm thí nghiệm ban ngày v́ sợ mấy thằng hùn vốn thấy tôi quờ quạng, nên chờ khi chúng nó về nhà, tối tối tôi mới mang đồ ra làm. Sáng nào tôi cũng thấy tụi nó mặt mày méo xẹo, tuyệt vọng, xem như chín cây vàng đi đời, mong ǵ gỡ gạc lại cho nổi. Thế nhưng trời thương hại kẻ khù khờ,  tôi đă thành công cách phóng thích được nước, bột giặt khô ráo, nở phồng (cám ơn trời phật, cám ơn ư kiến mỗi người một ít giúp tôi). Đêm đó một ḿnh tôi bỏ hóa chất vào máy trộn đến sáng, một tấn bột giặt. Sáng ngày mấy thằng bạn tới, mở cửa thấy bột giặt chất cao tràn ngập, thằng nào cũng mừng chảy nước mắt. Tụi nó dẫn tôi ra tiệm hủ tiếu thưởng cho một tô, bù lại mấy tháng chỉ ăn cơm với nước mắm. Nên nhớ lúc đó giá thành một đồng, bán ra mười đồng (Lâu quá không nhớ chính xác giá cả, nhưng khoảng chừng vốn một, lời mười).


Nguồn vốn khởi đầu 9 cây vàng, vừa hóa chất vừa máy móc. Sau 4 tháng nguồn vốn lên 400 cây vàng. Chỉ có anh Hùng có vợ con, c̣n ba đứa c̣n lại độc thân, mới 26 tuổi, sống trên đống bạc, bấy giờ là lúc tiêu tiền cho biết mặt. Chẳng có thằng nào biết dành dụm, cất giấu. Tiền dư đi mua thêm đồ về tiếp tục làm, càng nhiều càng tốt, thuê một kho hàng chất đồ. Lúc đó cả nước đói khổ, đi toàn xe đạp. Tụi tôi mỗi thằng chơi một chiếc xe hơi. Chính cái cách chơi trội nầy, đă giết tụi tôi trong tức tửi sau nầy.

 

Tụi tôi thường mang sản phẩm đi kiểm nghiệm. Pḥng Kiễm Nghiệm của “Thành Phố” lúc đó có một người kỹ sư hóa học ở Cộng Ḥa Dân Chủ Đức về, người đó trạc tuổi cỡ chúng tôi nhưng phách lối và hợm hĩnh, coi trời bằng vung. Ông mặc áo blue trắng, bên ngoài đeo súng như một tay cao bồi. Dưới quyền của ông nầy là vài giáo sư đại học Sài G̣n, các kỷ sư của miền Nam, thuộc diện khoa học kỹ thuật.  Buổi sáng mọi người xếp hàng để cho ông ấy điểm danh (ở hải ngoại chắc cũng c̣n một vài vị làm việc tại Cục Tiêu Chuẩn Đo Lường Chất Lượng thành phố HCM lúc 75-76, c̣n nhớ chuyện nầy). Thân phận của kẻ bại trận thật nhục nhă, thật tồi tệ.

 

Nhớ có lần tôi có hỏi ông kỹ sư nầy, trong pḥng toàn những người trí thức, chân yếu, tay mềm, ông mang súng làm ǵ? Ông trả lời một cách xấc xược: “Nếu chúng nó không nghe lời, th́ nỏ vào đầu chúng nó”. Thế đó, tư cách của một người trí thức thắng trận rất phách lối, chà đạp nhân phẩm, hiu hiu tự đắc, không chịu được. Những người cô thế như các vị khoa bảng miền Nam bị thất trận, đành cúi đầu nhẫn nhục.


Mỗi buổi sáng, người đứng xếp hàng mua bột giặt dài thườn thượt ngoài đường. Mỗi người được năm kư lô, đem ra chợ bán lại có được một ngày đi chợ mua thức ăn đơn giản, đạm bạc cho gia đ́nh. C̣n các bạn bè của chúng tôi th́ được 50 kư lô giao ở cửa sau, trong số đó có gia đ́nh anh Tường Linh (nhà thơ), và ông Vũ Hạnh (nhà văn) c̣n sống ở Việt Nam. Không biết các ông c̣n nhớ giai đoạn khó khăn nầy không? Tôi nhớ anh Tường Linh mang bà Vũ Hạnh tới chỗ sản xuất bột giặt Bạch Long gặp tôi. Đây là cơ hội giúp đỡ bạn bè và người thân. Lấy hàng đi bán, chiều thu tiền mang lại trả. Có khi bi Công An hốt sạch th́ xí xóa, lấy cái khác đi bỏ mối. Giai đoạn nầy cả nước khốn khổ. Thú thật, người ta để yên cho tụi tôi sản xuất th́ phải chi từ trên xuống dưới, ăn nhậu, đút lót, quà cáp,..người đứng ra làm chuyện nầy là anh Hùng, v́ có cái mác gia đ́nh cách mạng.  Chi cho công việc cũng nhiều, mà chi cho riêng ảnh cũng nhiều. Thế nhưng tiền kiếm được cũng khá nên lờ đi mấy cái chuyện lẻ tẻ nầy.

 

Sau đó th́ đến giai đoạn đổi tiền, anh em tôi phải vác hai“bao tạ” tiền đi đổi (loại bao bố tời đựng 100 kgs gạo hồi ấy); hai nhân viên đếm tiền riêng cho tụi tôi mất một ngày, rồi tụi tôi lănh 500 đồng tiền mới (lúc ấy mỗi gia đ́nh được 200 đồng. Cơ sở sản xuất được 500 đồng). Tụi tôi mất vố nầy khá đậm. (Anh bạn thân hay đến chỗ chúng tôi chơi, hiện đang sống tại Canada là TCN, biết rất rơ về tụi tôi trong giai đoạn tranh tối, tranh sáng nầy nhất. Anh là độc giả của Talawas, chắc anh đọc hồi kư nầy).


Trong giai đoạn ầy, tôi cũng xin nói qua về khung cảnh xă hội Sài G̣n lúc đó. Tất cả đều tê liệt, cán bộ đến từng nhà kêu gọi đi kinh tế mới bằng mọi thủ đoạn như dọa nạt cũng có mà năn nĩ cũng có, nhất là đối với các gia đ́nh quân nhân, công chức của chế độ cũ. Rồi bắt ép mọi người mua công khố phiếu, gửi tiền tiết kiệm, đi thanh niên xung phong, làm thủy lợi.  Một ông cụ bên nhà tôi, hưởng ứng gửi tiền tiết kiệm, nghe những cám dổ đường mật lọt tai. Trong nhà có ǵ vét hết, bán đồ trong nhà để có tiền gửi lấy lời sống qua ngày. Sau hai năm số tiền lớn ông gửi vào ngân hàng, lời đâu không thấy, khi lấy ra cả vốn lẫn lời không đủ tiền mua một bao gạo, gia đ́nh ông khóc hết nước mắt

 

Cái dễ sợ nhất và tàn nhẫn nhất là “Đánh tư sản mại bản”. Toàn dân miền Nam từ giàu tới nghèo như ngồi trên đống lửa, không biết nhà nước dở tṛ ǵ đây, mà tṛ ǵ cũng từ chết tới bị thương. Không biết lúc nào người ta đóng chốt nhà ḿnh để kiểm tra. Khi kiểm tra nhà nào là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Họ đào xới không chừa một chỗ nào, không thể giấu đâu được với họ. Rồi tống những gia đ́nh nầy đi kinh tế mới, lấy nhà giao cho cán bộ. Nhà lớn th́ giao cho cấp lớn, nhà nhỏ th́ giao cho cấp nhỏ. Một cuộc cướp bóc trắng trợn và bất nhân. Người dân nuốt hận ê chề và cũng chính lúc nầy phong trào vượt biên bắt đầu lớn mạnh, họ bất kể sống chết, bất kể tới đích hay không. Phải trốn thoát khỏi một chế độ kinh người. Rất nhiều gia đ́nh treo cổ tự tử lúc đó v́ uất hận.

 

Ông Bảy Quân (phó chủ tịch quận B́nh Thạnh), trong một buổi họp công thương nghiệp, nói về chuyện tự tử của dân chúng. So với sự hy sinh của cách mạng quá to lớn trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, th́ cái chết lẻ tẻ của những gia đ́nh tư sản nầy chỉ là giọt nước trong biển cả. Họ chết th́ cứ chết, ta cứ tiến lên.” Dễ sợ và khát máu chưa?  Người dân không có gạo, ăn bo bo. Con nít tối nào cũng tập trung hát ḥ ca tụng Bác Hồ, người lớn đi họp để nghe rao giảng sự đẹp đẽ của chế độ, do những cán bộ từ trong rừng ra chủ tŕ, ba hoa lớn lối, tŕnh độ học vấn chẳng có bao nhiêu, người dân cứ ngủ gà ngủ gật.

 

Tôi nhớ một lần ở cư xá Thanh Đa, trong đêm  trao trả quyền công dân cho những “ngụy quân, ngụy quyền” trong đó có tôi. Khi gọi tôi ra tŕnh diện trước dân chúng, một người hàng xóm không quen biết có ư kiến về tôi: “Anh nầy là người tốt, hay giúp đỡ bà con cḥm xóm. Tôi đề nghị trả quyền công dân cho ảnh để đi bầu cử”, Đồng bào bên dưới vỗ tay rần rần. Khi ra về, tôi t́m tới ông nầy để nói lời cảm ơn. Ông nầy nói nhỏ vào tai tôi: “Khi anh lên, không có ai biết anh là ai, nên không có ư kiến. Thấy vậy tôi đứng lên nói cho xong chuyện để về nhà ngủ sớm c̣n mai phải đi làm. Chứ để cù cưa cú cứa biết khi nào xong”. Đúng, dân Sài G̣n phần đông họ rộng lượng với những người thuộc chế độ cũ. Quả thật dân chúng quá ngán ngẫm những buổi họp như thế nầy, cắn răng chịu đựng. Sống trong sự giả dối, ăn nói giả dối, làm việc giả dối v.v… từ cán bộ cho tới dân chúng ai cũng biết như vậy, nhưng răm rắp tuân theo như thật.


Phần 2

 


Sau khi cơ sở làm bột giặt của tụi tôi thành công, chúng tôi đi mua một cơ sở lớn hơn tại số 9  đường Đinh Bộ Lĩnh, Phường 24, B́nh Thạnh. Đây là một building lớn của ông chủ hảng tôn lợp nhà bằng nhựa, v́ sa cơ thất thế và cũng sắp sửa đi Pháp nên ông bà đó bán lại cho tụi tôi. Chúng tôi dọn cơ sở làm bột giặt về đây, c̣n căn nhà trên đường Bạch Đằng chúng tôi thành lập tổ hợp làm bột trẻ em hiệu Đông Phương. Chúng tôi gọi bạn bè góp vốn, ai có tiền th́ trả, ai không có tiền th́ chúng tôi cho mượn vốn trả sau (đây là một quyết định sáng suốt, tránh khỏi một tai họa giáng xuống đầu chúng tôi sau nầy). Building nầy nằm giữa hai building của hai người đều nỗi tiếng. Nhà số 7 của Ông Nguyễn Quang Minh (hiện nay ở Pháp), tiến sĩ kinh tế, Tổng Giám ĐốcViệt Nam Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín của ông Nguyễn Tấn Đời. Căn nhà số 11 của ông Mười Thơ, Phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố.


Nhà ông tiến sĩ Minh mở cái quán cà phê trước cổng vào nhà, ông đứng pha cà phê cho khách. Thật chạnh ḷng cho một trí thức bị thất sủng, ai vào gọi cà phê, ông “dạ” rất lớn và khúm núm bưng cà phê ra cho khách. (Ngoài tụi tôi ra, không ai biết đây là một trí thức danh tiếng của miền Nam trước 75. Sau nầy ông vượt biển qua Mă Lai, được Chính Phủ Pháp tiếp nhận ngay). Thế nhưng ông có một hành động rất dũng cảm. Một lần ông Mười Thơ cho người qua mời ông qua nhà, nhờ ông giảng giải về kinh tế của tư bản mỗi đêm. Ông thẳng thừng từ chối nêu lư do v́ sức khỏe ông phải ngủ sớm, con mắt ban đêm lem nhem và sách vở bị tich thu, không c̣n tài liệu. Người em cột chèo với ông, anh Nguyễn Tiến Khải (em của bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ nhà chính trị tên tuổi của miền Nam trước 75, anh Khải bây giờ cũng đang sống tại Pháp) nói với tôi rằng, làm sao ông giảng giải kinh tế cho một người mà tŕnh độ chưa qua tiểu học. Từ chối cho nó khỏi lôi thôi..


Ông Phó chủ tịch phường 24, B́nh Thạnh tên Minh, vào cơ sở tụi tôi mượn chiếc xe Renault 10 (chiếc xe nầy tụi tôi mua lại của ông Giám đốc hăng Renault Sài G̣n, trước khi ông về Pháp bán lại), để đám cưới cho đứa con. Có một người bạn mượn xe nầy đi Đà Lạt chưa về. Anh Hùng nói với ông là xe đă cho mượn không có ở đây. Ông Minh nghĩ rằng tụi tôi làm khó không cho ông mượn, ông ghim chuyện nầy trong ḷng, rồi lợi dụng lúc Chủ tịch phường đi vắng ông mang một đoàn kiểm kê đến đóng chốt cơ sở bột giặt Bạch Long, lúc đó phong trào cải tạo thương nghiệp đang ở cao điểm, không có ai có thể cản trở được, mặc dù chúng tôi thuộc diện công nghiệp (tức là nơi sản xuất của cải vật chất), không ở trong diện cải tạo. Đoàn kiểm kê này làm việc cả tuần lễ, người Trưởng đoàn nói chuyện với tôi là ông Minh ra lịnh đóng chốt ở đây, v́ nghi ngờ đây là cơ sở mua gian bán lận. Khi vào mới biết đây là cơ sở sản xuất, Trưởng đoàn có tŕnh lên cấp trên nhưng v́ đă đóng chốt rồi không thể rút lui. Thi hành trước, khiếu nại sau. Như vậy v́ thù vặt cá nhân, biến công cuộc cải tạo thương nghiệp thành một cuộc trả thù. Tụi tôi tưởng rằng một Phó chủ tịch phường mà làm được ǵ, thế nhưng khi nằm trong danh sách đă bị cải tạo mới biết tất cả đều do phường báo cáo lên trên, phát sinh những nhà buôn bán mới mà chưa kịp báo cáo, ngay tức khắc dẫn dắt các toán kiểm kê đóng chốt (cơ sở của tụi tôi ở trong trường hợp nầy).

 

 Dĩ nhiên phường không xơ muối ǵ được những đồ tịch thu, xe của thành phố tới chở đi. Tất cả cái ǵ có trong cơ sở đều bị vét, tụi tôi bước ra ḿnh không với vài bộ áo quần cũ và chuẩn bị đi vùng kinh tế mới. Từ những người có nhà lầu, xe hơi, tiền bạc vào ra như nước. Sau một đêm trở thành những kẻ bần cùng, thân tàn ma dại. Những người thân, bạn bè cũ một phần sợ liên lụy, một phần sợ nhờ vă, không ai dám gặp tụi tôi. Đứng ngoài đường nh́n đoàn xe chở đồ đạc của ḿnh đi nơi khác, anh em ôm nhau rơi nước mắt. Chị vợ của anh Hùng có mấy lượng vàng của hồi môn cha mẹ để lại, khi làm biên bản tịch thu để câu: “kim khí màu vàng”, chứ không xác định đó là vàng. Anh Hùng thắc mắc chuyện nầy th́ ông Trưởng đoàn giải th́ch, không có đồ phân loại cho nên không thể xác nhận là vàng được, ghi như vậy cho cấp trên giải quyết. Tôi nghĩ trong bụng khi mà tới kho nhà nước toàn là đồ đồng, vàng thật vào tay cán bộ.


Ngày xưa bước đến Ủy ban nhân dân phường, mọi người chào hỏi nhau như người thân. C̣n bây giờ ra phường chờ đợi giấy tờ, ngồi trong góc chẳng ai thèm hỏi han, ai cũng muốn tránh né. Những bộ mặt thân thiện ngày nào, bây giờ thay đổi một cách nhanh chóng, lạ lẫm. Chúng tôi là loại tội phạm của chế độ, không có thuốc “ba con năm” để mời nhân viên, nên họ nh́n ḿnh bằng cặp mắt xa lạ. Cũng may chiếc xe Renault 10 cho một người bạn mượn  đi Hà Nội nên không bị tịch thu. Chỉ tịch thu bốn chiếc xe đang đậu trong hăng. Tụi tôi chờ đợi đi kinh tế mới, nơi tụi tôi chọn là Phương Lâm  (Định Quán).


Trong khi chờ đợi, một người bạn rủ tụi tôi đi Cai Lậy chơi, luôn tiện mua một “thùng” gạo (khoảng chừng 10 kư lô) để dành về ăn, đến trạm Tân Hương kiểm soát thấy tụi tôi chở gạo, nên xe bị giữ lại. Hai ngày sau tụi tôi xuống Mỹ Tho nhận lại xe th́ được biết chiếc xe Renault 10 bị tịch thu. Chở chỉ 10 kí gạo mà tịch thu một chiếc xe, đó chỉ là hành động ăn cướp. Tụi tôi làm đơn khiếu  nại nhưng không có nơi nào giải quyết. Số phận của chiếc xe không mất trong kiểm kê, th́ mất trong trường hợp cướp cạn nầy. Vừa rồi về Việt Nam nh́n cảnh dân oan của mấy tỉnh phía Nam lên Sài G̣n kiện tụng đất đai, tôi nghĩ lại chuyện thưa kiện của ḿnh mà thương cho họ, có ngồi ṃn đít quần, tốn tiền tốn của, chỉ thiệt thân cho ḿnh thôi. Làm sao con kiến mà kiện củ khoai cho được. Các cấp chính quyền không có ai thương xót, mặt họ lạnh như băng. Chỉ có dân chúng qua lại thông cảm nỗi đau của họ, nhưng chẳng giúp được ǵ.


Sống trong nước giữa thời điểm đó có quá nhiều bất trắc cho dân chúng. Các ông Tôn Đức Thắng, Lê Duẫn, Trường Chinh, ráng gân cổ gào thét: “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xă hội”.Nhưng dân chúng đều thờ ơ, ngơ ngác, đói rát ruột, áo quần te tua, làm sao tiến nhanh, tiến mạnh được. Cổ xe cứ ́ ạch chạy không nổi. Sao con đường bước đến xă hội chủ nghĩa dài và nhiêu khê quá vậy, biết bao giờ mới tới được nơi đó. Đời cha tới đời con đều c̣ng lưng kéo lê cuộc đời vô sản vẫn chưa thấy được một chút ánh sáng le lói nơi chân trời, chỉ đi măi trong tăm tối. Thật quá ngao ngán và mệt mơi. Đường phố Sài G̣n các xe chạy bằng xăng sửa lại, gắn một cái thùng phía sau chạy bằng than như hồi đầu thế kỷ 20. Muốn bước qua thiên đường, phải bước qua ngưởng cửa địa ngục trước, đúng vậy.

 

Tụi tôi sửa soạn lên đường đi Kinh Tế Mới th́ bố của anh Hùng ngoài Bắc vào. Ông thuộc loại cách mang năm 30 c̣n lại (tức là những đảng viên kỳ cựu của thời mới thành lập đảng). Ông thấy con cháu ông sắp sửa rời thành phố, cũng đau ḷng nên ông mang đơn gặp thẳng ông Sáu Dân (Vơ văn Kiệt) kêu cứu cũng mất mấy ngày. Một buổi chiều nọ, ông hớn hở mang giấy về, tạm hoản cho tụi tôi đi kinh tế mới, v́ đây thuộc diện công nghiệp, được ở lại thành phố tiếp tục sản xuất.


Anh em tụi tôi bám vào bột trẻ em Đông Phương đă thành lập trước đây. Chở vợ con trên chiếc xe đạp đi làm (lúc nầy tôi đă có cháu đầu ḷng), bây giờ mới thấy sáng mắt cho cái chuyện phùng x̣e của tuổi trẻ, khi bị tống ra khỏi hảng Bạch Long không có đứa nào c̣n tiền. Không có nơi ở, chạy đôn chạy đáo mượn tiền mua một cái nhà nhỏ trong con hẽm chợ Cây Thị , Phường 11, Quận B́nh Thạnh. Thề trong bụng, sau nầy làm ăn khấm khá cũng không bao giờ mua nhà to cửa rộng,  chỉ mua vừa đủ chỗ cho vợ con chui rúc ra vào.


Vợ chồng cùng làm trong hang bột nuôi trẻ Đông Phương, đây là một tổ hợp đúng nghĩa. T́nh trạng sữa cho trẻ em khan hiếm, bột Đông Phương đáp ứng kịp thời, mỗi ngày sản xuất hàng tấn bột. Những gia đ́nh đi thăm nuôi các anh em trong trại cải tạo, đến đặt hàng cũng nhiều. Tinh thần mấy đứa tụi tôi bắt đầu khôi phục, chia lời cho mỗi thành viên trong tổ hợp cũng khá, nên cuộc sống cũng bắt đầu khởi sắc. (Tổ Hợp Đông Phương sau nầy có 40 thành viên).


Lúc nầy quân đội Khờ-me đỏ khuấy nhiễu biên giới tây nam. Bộ đội chuẩn bị tấn công Campuchia. Một buổi sáng, một chiếc xe bộ đội đổ trước cửa bột Đông Phương, một số sĩ quan bước vào muốn gặp Ban Chủ Nhiệm. Anh Tường Linh (nhà thơ) lúc đó là tổ trưởng bột Đông Phương tiếp chuyện. Sau một hồi anh Linh gọi tôi ra cho biết là Quân Khu 7, muốn đặt một số bánh lương khô phát cho binh sĩ (kèm theo mẫu lương khô của Tàu). Tôi trả lời có thể làm được, chỉ tương tự chứ không giống hẳn như bánh của Tàu (lúc đó tôi giữ phần kỹ thuật sản xuất). Tất cả đều đồng ư. Tuần sau họ tới lấy mẫu để về tŕnh lên cấp trên. Thật t́nh th́ lương khô nầy cũng bao gồm hàm lượng dinh dưỡng đại khái, không có ǵ đặc biệt lắm, nên cũng không đ̣i hỏi kỷ thuật và chất lương cao.


Quận B́nh Thạnh cấp cho tụi tôi một cơ sở rộng răi ở đường Đinh Bộ Lĩnh (cơ sở nầy trước đây là Viện bào chế thuốc tây của Dược sĩ Phạm Doăn Điềm), để sản xuất lương khô. Chúng tôi phải trang bị thêm máy ép bánh, máy sấy, máy rang ngũ cốc, máy xay v.v…trong một thời gian ngắn nhất, để đáp ứng với nhu cầu cần cho bộ đội tiến đánh Campuchia. Việc sản xuất cũng trôi chảy không trở ngại. Chừng một tháng th́ pḥng sấy bị cháy, lửa bốc lên ngùn ngụt thiêu rụi một khu nhà sản xuất. Đến lúc nầy mới thấy mệt. Những người có mặt tại hiện trường lúc cháy phải tŕnh diện công an điều tra v́ nghi ngờ phá hoại, cản trở sự tiến quân của Bộ Đội vào Campuchia (dưới con mắt của người Cộng Sản, cái ǵ cũng có thể nghi ngờ và cái ǵ cũng nhuộm màu sắc chính trị). Nghe tin nầy đứa nào cũng sợ té  đái, v́ ḷi ra toàn là thứ “ngụy quân, ngụy quyền” của chế độ cũ. Đoàn kiểm tra của Quân Khu 7 tới xác nhận đây là “sự cố” kỷ thuật, phải dọn dẹp ngay và trang bị kịp thời để tái sản xuất (bên công an phải ngưng điều tra). Trong lúc sửa chửa cơ sở th́ Bộ Đội đă tiến vào Nam Vang, Quân khu 7 thông báo cho biết là chấm dứt hợp đồng. Tụi tôi mừng hết lớn, thoát ra được cái ṿng kim cô siết ḿnh vào toàn những chuyện không đâu, mất ăn mất ngủ mấy tháng trời.


Trong giai đoạn nầy cả nước lâm vào t́nh trạng bi đát. Hàng hóa của thân nhân từ hải ngoại gửi về được hải quan lục xét một cách tận t́nh và thô bạo, để t́m dollas cất giấu, các típ kem đánh răng được tháo ra, quậy nát. Không có đồng dollas nào chui lọt được. Mức thuế trên những thùng hàng hóa gửi về thật nặng nề và tùy tiện. Sau khi đến tay người nhận chỉ c̣n vào khoản 20% - 30%. T́nh trạng cấm vận gây cho người dân nghèo mạt rệp. Giữa lúc nầy biên giới phía bắc, lính Trung Quốc tràn qua biên giới “dạy cho Cộng Sản Việt Nam “ một bài học tráo trở, quên công ơn họ giúp trước đây. Không biết đảng Cộng Sản có nhận bài học nầy không, chứ c̣n nhân dân th́ lănh đủ. Vừa đói, vừa giặc giă hết biên giới phía Nam, đến biên giới phía Bắc, người dân khốn đốn trăm bề.


Vài năm sau tôi thấy t́nh h́nh có vẻ ổn định, tôi muốn về nhà mở một cơ sở làm kem đánh răng (c̣n vợ tôi vẫn làm ở Đông Phương). Tôi lấy hiệu là kem đánh răng Mimosa. Trước khi mở cơ sở tôi phải làm mẫu để đi kiểm nghiệm. Không biết tại sao công an phường cứ vài ngày đi xét nhà tôi một lần, liên tục như vậy cả tháng. Lần cuối họ hỏi thẳng tôi v́ thấy những mẫu kem để trên bàn không có nhăn hiệu. Tôi bảo với họ là tôi chuẩn bị sản xuất kem đánh răng, nên phải làm mẫu kiểm nghiệm. Khi tôi ra phường xin phép th́ bà Thùy Trâm (dân Quảng Nam) Bí Thư, cho tôi biết là phường đă nghe dân chúng báo cáo là tôi làm kem giả. Hèn ǵ công an xét nhà tôi bao nhiêu lần mà không thấy ǵ cả là v́ vậy. Bắt đầu tôi mới thấy sợ sự kiểm soát khắ khe trong dân chúng, tai mắt của họ khắp nơi, nhứt cử nhứt động không qua được họ.


Lúc đó kem đánh răng khan hiếm trên thị trường nhất là các tỉnh phía bắc. Tôi kư hợp đồng với thương nghiệp cung cấp kem cho các tỉnh. Giá thành trong hợp đồng quá thấp v́ vậy kem đánh răng chất lượng rất tồi, để một thời gian lâu sẽ bị khô. Với giá cả quá thấp như vậy không thể nào tốt được. Nhưng Thương Nghiệp Quốc Doanh cần như vậy, có c̣n hơn không. Thế nhưng vẫn bán được và sản xuất đều đặn. Không có cái ǵ tốt hơn và cũng không có loại nào khác hơn để mua, buộc ḷng dân chúng phải mua đồ “dỏm” nầy để dùng.

 

Một điều khó và giết chết những nhà sản xuất lúc đó là ngân hàng. Các công ty thương nghiệp trả bằng check, cầm cái check nộp vào ngân hàng th́ không được lănh tiền ra ngay v́ nhiều lư do. Ngân hàng không có tiền, chế độ quan liêu bè phái, hối lộ cửa sau v.v…người sản xuất trăm bề khó khăn. Trị giá đồng bạc càng ngày càng mất, tất cả tính toán bằng giá vàng trên thị trường. Mua hàng hóa sản xuất trị giá bằng vàng, nhưng khi bán hàng của ḿnh cho nhà nước th́ trị giá bằng tiền. Sự khác biệt nầy gây cho nhiều cơ sở sản xuất phải khánh tận (giá vàng lên nhanh quá, theo không kịp). Tôi đă khốn đốn khổ sở rất nhiều trong thời gian nầy. Làm ăn quần quật nhưng rốt cuộc chẳng c̣n ǵ, bao nhiêu tiền vợ chồng dành dụm đều mất sạch (khoản thời gian nầy chắc anh Đào Hiếu hiểu rỏ, v́ lúc đó ảnh có tham gia làm kem đánh răng một chỗ khác).

Lúc bấy giờ mới nghĩ tới chuyện vượt biển, chạy ra Phước Tỉnh (Bà Rịa – Vũng Tàu) mua ghe, vài anh em hùn vốn. Đến ngày lên đường th́ mới biết ḿnh bị lường gạt. Tàu đă chở nhóm người khác ra khơi trước một đêm, đúng giờ ra chỗ hẹn, chờ dài cổ vẫn biệt tăm. Bị công an phát hiện chạy trối chết, một số bị bắt. Chưa có lúc nào ngao ngán ḷng người như vậy. Lấy tiền xong chỉ điểm cho công an đến bắt, không tin vào ai được. Tiền của không c̣n, về lại Sài G̣n làm lại cuộc đời, chờ đợi ông già vợ bảo lănh cho chắc ăn.


Hồ sơ bảo lănh cho gia đ́nh, tôi nộp vào năm 1979, thế nhưng không biết lạc nơi đâu. Những người nộp hồ sơ sau tôi đều lần lượt ra đi. Tôi làm đơn khiếu nại tại văn pḥng Bộ Nội Vụ ở đường Nguyễn Trăi Sài G̣n, nhiều lần, nhưng không thấy trả lời. Đến khi có chương tŕnh HO, tôi mang hồ sơ đến trung tâm dịch vụ của Bộ Nội Vụ (đây là nơi làm tiền một cách trắng trợn, nhưng rất được việc), vài tháng sau họ báo cho biết là tôi sẽ được cấp visa và chuẩn bị phỏng vấn. C̣n hai cái ải quan trong mà tôi phải bước qua là thuế và nhà đất.

 

Tôi là người có đứng tên trên vài cơ sở làm ăn sau nầy,  nên phải thanh toán tất cả nợ nầng thiếu thuế trước khi rời khỏi đất nước. Một nhân viên ra cho tôi biết là tôi c̣n thiếu thuế nhiều quá nên chưa thể cấp giấy cho tôi được (một cú đánh phủ đầu trước, cho tôi cháng váng mặt mày). Ngày hôm sau, có người làm trong pḥng thuế quen với tôi tới nhà cho biết là tôi phải chi một ít tiền, vài ngày sau tới nhận giấy chứng nhận không thiếu thuế. Giờ phút nầy họ đ̣i bao nhiêu cũng phải bóp bụng đưa, chứ không c̣n con đường nào khác hơn. Rồi đến nhà đất cũng vậy. Qua xong hai cái ải nầy, rồi đến cái ải phi trường. Không biết ḿnh có bị giữ lại không? Đến khi máy bay cất cánh mới biết ḿnh không việc ǵ, mới thở phào. (Tôi ra đi cùng một lúc với các anh chị Cải Tạo (HO 4) – tháng 6 năm 1990).


Từ năm 1975 đến 1990, tôi đă sống đúng 15 năm trong Xă Hội Chủ Nghĩa. Tôi đă chứng kiến những chiếc xe tăng T 54 phá sập cổng chính dinh Độc Lập (xem như thành tŕ cuối cùng Việt Nam Cộng Ḥa được xô ngă). Tôi đă sống trong một đất nước ḥa b́nh, người dân không c̣n lo sợ súng đạn, nhưng sợ sự đố kỵ, sự phân biệt, sự kỳ thị. Tôi đă ngụp lặn trong một cuộc sống đầy rủi ro, chấp nhận những miệt thị lớn lối của kẻ thắng trận. Họ được quyền  chà đạp nhân phẩm của người khác, rêu rao vẽ vời một chủ nghĩa xa lạ và bắt dân chúng thuần phục như một tín đồ.

 

Tôi đă chứng kiến cảnh “ngăn sông cấm chợ”, chứng kiến những anh em, bạn bè  của ḿnh đi Học Tập Cải Tạo, đi Kinh Tế Mới, đi Vượt Biên. Chứng kiến một xă hội băng hoại, tham nhũng có tổ chức, chèn ép dân chúng để hối lộ, bao che cho nhau những việc làm vô đạo đức. Những cái cảnh sửa sai, sai sửa hy sinh hết lớp nầy đến lớp khác v.v.. c̣n nhiều thứ không kể hết. Nhưng bao giờ tôi cũng mong, vẫn tin tưởng một ngày nào đó những tệ nạn ấy không c̣n bao trùm trên đầu dân chúng. Một giai đoạn “không đẹp” mà tôi đă bước qua, sẽ trôi vào quên lăng, chôn kín, và xem đây như một lầm lỗi, lịch sử không lặp lại.


Houston, 23/7/2009
Phan Xuân Sinh