Tn Mn V Hát Bi B́nh Định

Vơ Ngc Uyn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

          Nói về quê hương B́nh định, người ta thường nghĩ ngay đến các anh hùng liệt sĩ đă làm vang danh rạng rỡ trong lịch sử Việt nam: Quang Trung Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng, Bùi thị Xuân, Ngô tùng Châu, Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ v.v... Nơi đó cũng là cái nôi của Vơ thuật miền Trung được diễn tả đấy đủ trong câu ca dao:

Ai về B́nh định mà coi
Con gái B́nh định cầm roi đi quyền


Và cũng là nơi phổ biến thịnh hành tuồng Hát bội.

1.- Trước tiên, danh từ Hát bội và nghệ thuật Tuồng có từ thời nhà Trần nước ta (1226-1399). Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược với ba trận đánh khốc liệt, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn bắt được ông Lư Nguyên Cát người Trung hoa, ông này có tài về hát tuồng diễn kịch, giao cho tướng Trần Nhật Duật tổ chức các đội hát tuồng để ủy lạo, giúp vui cho tướng sĩ. Danh từ Hát bội có từ đó, v́ cách tổ chức tŕnh diễn theo lối bát điệu (tám mặt), h́nh thức tám cái sân khấu đâu lưng nhau, quay mặt ra tám hướng theo h́nh bát quái: Tây Bắc, chánh Bắc, Đông bắc, chánh Đông, Đông Nam, chánh Nam, Tây Nam, chánh Tây. (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Một đội tuồng gồm tám đoàn nhỏ, rất đông đào kép, nghệ sĩ. Tám sân khấu đều hát chung một tuồng, cùng một lúc. Hướng Tây Bắc dành cho vua, gia đ́nh của vua và các quan đại thần thưởng lăm v́ hướng này thuộc Càn tượng trưng cho Trời (Thiên tử: vua là con của Trời), các cửa sân khấu khác dành cho các hạng tùy theo thứ bậc, phẩm hàm, của các quan trong triều kể cả gia đ́nh thứ dân, do vậy người nào cũng được xem ở bất cứ hướng nào, nên người ta gọi là hát bội. Bội là gấp lên, nhân lên, như một tấm gương phản chiếu h́nh ảnh khắp mọi nơi. Ví dụ: hát tuồng Cổ thành (Quan Công pḥ nhị tẩu) th́ khi đến lớp tuồng Trương Liên lên giáo đầu (khổ đầu) th́ cả tám sân khấu đều có nhân vật Trương Liêu cùng vẽ đúng một khuôn mặt, quần áo, mũ hia đều giống nhau.

Măi về sau này, v́ hoàn cảnh xă hội, v́ kinh tế, người ta giản lược đi, ở triều đ́nh chỉ c̣n hát tứ diện (4 mặt sân khấu) và trong dân gian, các gia đ́nh có thế lực hay cự phú, người ta tổ chức hát lưỡng diện (hai mặt sân khấu) mới đủ khả năng kêu gọi đào kép qui tụ và tiền bạc để nuôi ăn cho nghệ sĩ (con hát). Ví dụ: Năm 1930, ông chánh tổng Ky (cha của ông Nguyễn An Thạch, bà con của anh Nguyễn An Phong) tổ chức hát bôi lưỡng diện ở thôn Càn rang xă Cát thắng, Phù cát. Năm 1932, cụ tuần Bửu Xuyên (tức cụ Đào Phan Duân ở thôn Biểu chánh, xă Phước hưng, Tuy phước) cũng tổ chức hát bội có hai sân khấu.

Do vậy mà ta có thể nói là hát bội chứ không phải hát bộ được. Việc tranh căi về từ "Hát Bội" và "Hát Bộ" đă xảy ra nhiều lần, nhất là trước 1975. Có nhiều người không rơ nguyên do và lư luận theo mỗi cách khác nhau đă biện hộ cho ư kiến của ḿnh. Người chấp nhận chữ BỘI th́ cho rằng v́ các vở tuồng hát bội chỉ lấy nét chính của một tuồng tích mà dựng lớp. Một câu chuyện dài như Ngũ Hổ B́nh Tây, Phản Đường, mà chỉ lấy khoảng 10 lớp diễn là đủ cả câu chuyện nên gọi là xếp lại, gấp lại, nhân lên mà gọi là Bội. Có người c̣n cho rằng chữ Bội là bội bạc, các đào kép hát thường lăng mạn, có cuộc sống thiếu đạo đức hay bội phản về t́nh duyên, nên gọi là HÁT BỘI. Người cho chữ BỘ là đúng th́ quan niệm rằng hát bộ là phải có bộ tịch, múa may, chỉ trỏ cho đúng với ư nghĩa của câu tuồng nên gọi là HÁT BỘ, hoặc cho rằng khi cụ Đào Tấn c̣n làm quan, được vua cho lập bộ Đ́nh để trùng hưng lại môn hát bộ mà cho là Hát Bộ chứ không phải Bội. Cả hai trường hợp lư luận như vậy th́ ta thấy trong nghệ thuật cải lương cũng có. Tuồng cải lương cũng diễn tả những câu chuyện Tàu, cũng lấy lớp ngắn lại và diễn xuất điệu bộ rất công phu, nhất là cải lương Hồ quảng, sao người ta không gọi là Hát Bội hay Hát Bộ?

2.- Nguyên nhân hát bội thịnh hành, phổ biến rộng răi ở miền Trung và nhất là B́nh Định.

Trước nhất là ông Đào Duy Từ được gọi là ông tổ hát bội đầu tiên của B́nh định. Ai cũng biết ông Đào Duy Từ là một người có tài quân sự điều binh khiển tướng như Khổng Minh Gia Cát Lượng, ông đă tự ví ḿnh như Gia Cát Vơ Hầu nên sáng tác tập thơ "Ngọa Long Cương văn". Ông là người tài kiêm văn vơ, rể của tể tướng Trần Đức Hoà, cánh tay mặt của Chúa Hiền ở Đàng Trong, Ông được phong chức Táng tương Quân vụ, người dân thường gọi ông là "Nội Táng hầu", có câu ca dao:

Thương em, anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang
Phá Tam giang ngày nay đă cạn
Truông nhà Hồ Nội táng giới nghiêm...


Ông đă có công đắp lũy gọi là Lũy Thầy (chữ thầy là chỉ ông Đào Duy Từ) để chống quân chúa Trịnh ở miền Bắc, nhưng ông cũng là người rất sành về ca nhạc, thi thơ, ông là con của một nữ đào hát nổi tiếng ở kinh thành Thăng long, học giỏi, tài cao nhưng không được đi thi v́ là con của đào hát thuộc tầng lớp "xướng ca vô loại", do vậy, ông đă bỏ vào Nam thi thố tài năng sở học của ḿnh và được chúa Nguyễn trọng dụng. Ông Đào DuyTừ đă đặt các tuồng hát bội và tổ chức những đoàn hát. Với các vở tuồng rất hay đến ngày nay vẫn c̣n lưu truyền: San Hậu (Ông Đ́nh, Đổng Kim Lân, Khương Ninh Tá), Sơn Hà Xă Tắc, nội dung đều mang ư nghĩa phục thù, rửa hận: Nịnh thần soán đoạt ngôi vua, trung thần pḥ ấu chúa trốn chạy ra miền biên cương t́m căn cứ gầy dựng lại binh lực, chiêu hiền đăi sĩ để diệt chế độ do nịnh thần thống trị, cũng giống như trường hợp Nguyễn Hoàng vào Nam muốn diệt Trịnh pḥ Lê. Việc tổ chức hát tuồng, hát bội trở thành lợi khí chính trị vận động đồng bào miền Nam gia nhập quân đội chống lại miền Bắc, vừa giải trí giúp vui cho quân sĩ lúc xa nhà.

Ta sẽ thấy tài nghệ văn chương của ông Đào Duy Từ ở đoạn văn hát Nam Ai sau đây của nhân vật Đổng Kim Lân trong lúc trở về Sơn Hậu:

(Tán): Xếp ngọn ngũ lui khỏi Tạ Thành
(Chi nữa) Lên Cật Kư trông chừng San Hậu
Nam: San Hậu phản phản lối cũ
Đoái Tạ thành (c̣n đọc là thiềng) lụy đổ dường mưa
Ngọn cờ, tiếng trống bơ thờ
(Mẹ, mẹ ơi, con biết liệu làm sao đây!)
Thảo thân, ngay chúa sững sờ hai vai
(Ḥ, họ)
Bước đường mai, phong ai chi sá
San Hậu thành đoái đă gần đây.


Tâm sự của một người tướng tài như Đổng Kim Lân, bị Tạ Ôn Đ́nh bắt mẹ treo trên đầu thành, bảo Kim Lân phải đầu hàng, nỗi ḷng buồn như thất trận của một vị tướng: "Ngọn cờ, tiếng trống bơ thờ" thật là năo nề thê thiết. Nều đầu hàng địch là bất trung mà không đầu là bất hiếu: "Thảo thân, ngay chúa, sững sờ hai vai". Chữ "sững sờ" thật là đắc địa không c̣n chữ nào thế được!

Hiện nay tại B́nh định, họ Trần và họ Đào c̣n ḍng dơi rải rác ở các huyện Phù Cát, An Nhơn, Tuy phước.

Và giữa triều Nguyễn, B́nh định lại sản sinh được một kịch tác gia về tuồng hát bội là cụ Đào Tấn ở làng Vinh thạnh xă Phước lộc, huyện Tuy phước. Ông sinh năm 1845, đậu cử nhân khoa Đinh Măo (1867) tại trường thi B́nh định. Năm 1871 được gọi ra Huế làm Hiệu thư. Thời kỳ "bốn tháng ba vua" ông bỏ về nhà tu ở chùa Linh Phong (chùa Ông Núi). Tu được ba năm th́ được gọi ra làm quan, sau thăng dần làm Tổng đốc Quảng nam, Tổng đốc Nghệ an, sau cùng là Thượng thư bộ Công, thụ Hàm Vinh Quang Tử, một trong tứ trụ đại thần, Cơ mật viện, Đông các điện Đại học sĩ. Ông cũng là một nhà nghệ sĩ tài hoa, rất sành về kỹ thuật hát bội, đam mê nó đến nỗi khi làm Tổng đốc Nghệ an, đem theo người bạn trong làng, một nghệ sĩ hát bội, là ông đội Hiệp, thành lập một đoàn hát vừa là lính hầu, lính lệ, vừa là nghệ sĩ của đoàn hát, các người đó cũng có phẩm trật như ông Bát Phàn người làng Phú phong, sau này về hưu, lập đoàn hát bội tại Phú phong rất nổi tiếng. Ông Bát Phàn (bát phẩm) là thầy ông Cửu Vỵ ở B́nh nghi, ông Bầu Ba ở Nhơn hoà. V́ vậy ở B́nh định măi về sau này từ năm 1920 đến năm 1945 nổi lên nhiều gánh hát bội rất hay, có nhiều người được phong làm Chánh ca ở tỉnh và ở huyện như: Chánh ca Đông, chánh ca Gh́nh, chánh ca Đựng...

Các tuồng do cụ Đào Tấn sáng tác gồm có: Tân Dă Đồn (tác phẩm đầu tay viết năm 1867), Hậu Sanh Đàn, Trầm Hương Các, Cổ Thành, Ngũ Hổ B́nh Tây (sửa lại khúc sau do cụ Tú Nguyễn Diên là thầy cụ Đào sáng tác). Muốn sửa bổn tuồng Ngũ Hổ này, cụ Đào Tấn phải đem lễ vật đến cúng trước bàn thờ của thầy và xin phép sửa đoạn từ công chúa Thoại Ba đưa Địch Thanh lên đường.

Nội dung của mỗi bổn tuồng đều hàm chưa những tâm sự, ư hướng gởi gắm của tác giả. Ông có ư hướng đả phá bọn nịnh thần Việt gian thời đó là Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, theo Pháp để vinh thân ph́ gia, làm chuyện gian ác giết hại ṇi giống, đồng bào không có chút lương tri. Tuồng Hộ Sanh (đỡ đẻ), nhân vật Tiết Cương là tượng trưng cho phong trào kháng Pháp như: Phan Đ́nh Phùng, Hoàng Hoa Thám, Mai Xuân Thưởng, Trương Công Định. Nhân vật Tiết Nghĩa như những tên: Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải... Tuồng Trầm Hương Các (nói về Hoàng Phi Hổ đầu Châu), có ư đả phá một triều đ́nh thối nát không c̣n ra thể thống quyền lực ǵ cả... Về mặt văn chương, những tác phẩm của cụ Đào Tấn phải nói là trác tuyệt, mỗi câu hát Khách là những câu đối nên thơ, những câu sắp nam là những bài thơ ngắn, những lời nói lối cũng là những câu thơ nói lên nhiều tâm sự, ngọn bút sắc sảo tài t́nh, do vậy các vị nho sĩ, cử, tú trước kia đều ưa thích, tán thưởng. Nghệ thuật tuồng lại càng điêu luyện hơn, cách xây dựng lớp và nhân vật. Chỉ cần 5, 7 nhân vật cũng đủ làm nên một tuồng, chỉ cần 5, 7 lớp cũng đủ diễn tả một câu chuyện, ví dụ như tuồng Tân Dă Đồn, Cổ Thành, Hộ Sanh...

Cụ Đào Tấn mất năm 1907 (Thành Thái năm thứ 19) để lại sự nuối tiếc cho giới khoa cử bạn bè của cụ lúc đó.

3. Bộ môn hát bội đến nay gần như mai một v́ không được nhân dân hiện thời hưởng ứng v́ nhiều lư do

Trước tiên nó không đáp ứng được trào lưu tiến hóa theo thời đại của lớp trẻ. Điệu hát quá khác xa với các điệu ca nhạc tân thời du nhập từ Tây phương. Lối hát Nam xuân, Nam ai, Xuân nữ, Khách, Tẩu mă, Bạch, Xướng theo điệu kèn, trống, đờn cổ xưa đă trở nên lỗi thời lạc lơng với tầng lớp nhân dân hiện nay. V́ vậy ít người thưởng thức, nếu tổ chức, những đêm hát không bán vé được bao nhiêu, không đủ tiền để nuôi nổi đoàn tuồng. Hiện nay tại B́nh định, chính quyền cộng sản tỉnh có thành lập một đoàn hát bội gọi là Đoàn tuồng B́nh định, nghệ sĩ ăn lương nhà nước, nhưng cũng không đạt được yêu cầu. Các huyện cũng có các đoàn nhưng nghệ sĩ không đủ sống phải bỏ đi làm các nghề khác.

Lối hành văn trong các tuồng hát bội thường theo thể biền ngẫu, mỗi câu mỗi chữ phải đối nhau, dùng nhiều từ Hán Việt và điển tích nên rất khó hiểu, nhất là những câu hát Khách toàn là chữ Nho nên không phổ biến được, lớp trẻ bây giờ lại ít hiểu, không hiểu th́ không thể nào cảm mộ ưa thích được. Ví dụ như những câu hát Khách trong tuồng Hộ Sanh Đàn, đoạn Vơ Tam Tư đề binh đi t́m bắt Tiết Cương:

Thiết mă thiên quần phi tộ tuyết
Hùng binh vạn đội bó như tinh
Lôi đ́nh Giang Hán quân thinh chấn
Tiết thị hưu tư vọng thoát sanh


Tạm dịch:

Ngựa sắt ngàn bầy chạy như tuyết bay
Binh hùng mạnh vạn đội bày bố đông như sao
Bên bờ sông Hán thủy tiếng quân reo vang dội như sấm
Họ Tiết chớ khá nuôi ư đào tẩu.


Hay những câu nói lối của Tiết Cương:

Kinh địa từ tế tảo song linh
Triều binh phút công vi vạn đội.


Tạm dịch:

Từ khi đến đất Kinh đô tế mồ mả cha mẹ
Nay bị binh của triều đ́nh bầy bao vây trùng điệp.


Những câu Xướng, Bạch cũng thế toàn là chữ Nho và điển tích, như Lan Anh nhớ Tiết Cương:

Khéo lôi thôi dương liễu mạch đầu
Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng


Mỗi câu là một bài thơ Đường, thất ngôn tứ tuyệt:

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tướng mạch phong hầu
***Khéo lôi thôi dương liễu mạch đầu

và bài:

Đả khởi hoàng oanh nhi
Mạc giao chi thượng đề
Đề thời kinh thiếp mộng
Bất đắc đáo Liêu Tề
*** Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng.


Nhiều và c̣n nhiều lắm những trường hợp như vậy, do đó người b́nh dân chỉ cảm theo giọng hát và bộ tịch chứ khó thấu đáo được lời tuồng, nên sự đam mê thích thú cũng giảm đi rất nhiều. Lối hát ứ ư, ứ ự cũng đă quá lỗi thời không c̣n thích hợp với giới trẻ, giới thanh niên nữa.

4. Hát bội là môn nghệ thuật đi sâu vào ḷng dân B́nh định nói riêng và cho cả miền Trung nói chung từ Quảng trị đến Phan rang vào những năm 1975 trở về trước. Hát bội ở miền Nam cũng có nhưng thể điệu rất ngơi chậm và kéo dài, có lẽ ảnh hưởng của người Hoa.

Ở B́nh định thường có câu ca dao nói rơ sự đam mê của người dân về môn hát bội:

Hát bội hành tội người ta
Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con


Ưa thích mê xem hát bội đến nỗi đàn ông mới cưới vợ nghe có đám hát cũng để vợ ở nhà một ḿnh, đàn bà có con nhỏ không ở nhà ru con ngủ. Mỗi lần ở làng xă có chuyện cúng tế đ́nh miếu thần hoàng đều phải mời đoàn hát bội đến hát lễ cúng thần linh, thường chọn bổn tuồng có nhân vật Quan Công tức ông Quan Vũ - Quan Vân Trường trong truyện Tam Quốc, v́ quan niệm cho rằng ông đă hiển thánh sau khi tử trận, gương trung liệt nghĩa khí của ông đă sáng ngời với ba đức tính: "Bần tiện bất năng di, Phú quí bất năng dâm, Uy vũ bất năng khuất", mặc dù Tào Tháo trăm phương ngàn kế dụ dỗ, uy hiếp. V́ vậy các tuồng thường được tŕnh diễn như: "Cổ Thành": Quan công pḥ nhị tẩu quá ngũ quan trảm lục tướng (qua 5 ải chém 6 tướng) đoàn tụ với Trương Phi ở Cổ thành; "Hoa Dung Đạo": Quan Công tha Tào Tháo ở Hoa dung; hoặc "Tam Anh Chiến Lữ Bố" (Lưu, Quan, Trương đánh nhau với Lữ Bố), hoặc "Quan Công phó hội với Châu Du". Lấy hát bội để tế lễ thần linh như một món lễ vật quí giá dâng cầu thần cho mưa thuận gió hoà, dân cư lạc nghiệp, may mắn thịnh vượng, người ta gọi là hát "thứ lễ". Sau đó các chức sắc trong làng thường chọn các tuồng hát có tính cách tiểu thuyết, t́nh cảm như: Ngũ Hổ B́nh Tây, Hộ Sanh, Tiết Giao đoạt ngọc, Mạnh Lệ Quân v.v...

Ở chùa chiền cũng có tổ chức hát bội, nhất là vào dịp rằm tháng bảy lễ Vu lan, trong dân gian thường có câu: "Trong chay ngoài bội" trong chùa làm lễ cúng chẩn, bên ngoài hát bội, thường hát các tuồng có điển tích liên quan đến đạo Phật như: Mục Liên Thanh Đề, Quan Âm Thị Kính, Phạm Công Cúc Hoa v.v...

Mỗi lần có đám hát bội là mỗi lần trai gái trong làng có dịp gặp gỡ để tâm sự, tṛ chuyện, tán tỉnh, có cơ hội để trao đổi t́nh cảm. Do vậy mà dân chúng già trẻ đều ưa thích hát bội. Người nào hiểu được kỹ thuật, điệu nghệ, các thể loại của hát bội đều đam mê về tiếng kèn, nhịp trống, điệu đàn c̣ (c̣n gọi là đàn nhị), bởi nó diễn tả t́nh cảm: vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, ưa muốn (hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục) của mỗi nhân vật trong truyện tuồng mỗi vẻ khác nhau, theo t́nh tiết khác nhau, rất tế nhị. Lúc hùng tráng th́ hát theo thể: Bạch, xướng, tẩu mă, giao ban, nói lối; lúc vui vẻ, sung sướng th́ hát theo điệu: Nam xuân, nói lối, hát bài nhịp một, nhịp ba; lúc đau buồn th́ hát theo điệu: Khách, nói lối. Mỗi thể loại điệu kèn, đờn, nhịp trống ăn khớp với giọng hát, câu ca, dễ làm cho người xem phải cảm động say mê. Mỗi lần có đám hát nghe tiếng trống kèn thúc giục, nhất là tiếng trống chầu đổ liên hồi làm náo nức rộn ră ḷng người mà không đi được, chỉ tiếc là đến nay nó không c̣n thích hợp với tầng lớp trẻ nữa. Tân nhạc, phim ảnh đă thay thế làm môn giải trí thịnh hành hiện đại, nó dễ hiểu và dễ làm rung cảm ḷng người, nên lần hồi môn hát bội bị thất truyền mai một. Hát bội giờ đă như một h́nh bóng cổ xưa, quê mùa đối với thanh thiếu niên Việt nam ngày nay, ngay cả Cải lương cũng thế.

VƠ NGỌC UYỂN
(Đặc san TÂY SƠN Xuân Bính Tư 1966 – sankhau3mien.com)