Hoa trong vườn nhà

Chu Trm Nguyên Minh

Nguyn Tùng Vân

 

 

 

 

 

 

Về Nha Trang, những người yêu văn chương chữ nghĩa, thập niên 60 đều biết và nghĩ về một gia đ́nh có đến hơn một nửa thành viên hoạt động văn học nghệ thuật, một gia đ́nh đặc biệt hiếm có ở Việt Nam .

Tôi xin được trân trọng viết về hai người thuộc hai thế hệ văn học của gia đ́nh này.

 

Bắt đầu là:

 

1.

Nhà thơ TÂM TẤN

 

 

 

Bà sinh năm 1921 tại Đà Nẵng. Làm thơ năm 14 tuổi. Năm 1937, lúc bà 16 tuổi đă có thơ trên báo Tam Bảo. Và từ đó, bà xuất hiện: Trong Khuê Pḥng, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Đàn Bà, Liên Hoa, Tự Do, Tiếng Dội, Giác Ngộ…

Bút hiệu khác: Trinh Tiên, Trinh Nữ. Khi viết tùy bút, xă luận, bà kư: Lan Xuân, Diễm Bút.

Bà là bạn của: Phạm Huy Thông, Yến Lan, Vũ Đ́nh Liên, Chế Lan Viên. Và là nghĩa muội của cố thi sĩ Quách Tấn.

Bà đại diện miền Trung, nữ sĩ Thụy An miền Bắc, và Mộng Tuyết miền Nam, kết nghĩa thành ba chị em văn nghệ đại diện ba miền.

Tác phẩm đă in:

- T́nh Thơ [1944 - in chung với phu quân, nhà văn Bửu    

                                                                     Đáo Ái Mỹ]

- Hương Đạo Hạnh [1974]

- Cuộc Đời Lọc Những Tinh Sương [2004]

- Muôn Vàn Hương Sắc [2012]

Có mặt trong tác phẩm :

- Hương B́nh Thi Phẩm của Hoàng Trọng Thước [1962]

- Tuyển Tập Thi Ca Việt Nam từ thế kỷ 19-20 của Huỳnh Sanh Thông {1996}

- Nữ Sĩ Việt Nam của Nguyễn Ngọc Hiền [2005]

Bà hiện c̣n khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang.

Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc t́nh sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đă phổ biến…

Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà c̣n cả thanh sắc, thêm vào tính t́nh hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.

Bà ở vào thời Văn Học Lăng Mạn [1930-1945] những nhà thơ thuộc nhóm Dạ Đài, và nhóm Xuân Thu Nhă Tập, đă làm một luồng gió mới trong thơ, thơ dần thoát khỏi quan điểm “Thi Dĩ Ngôn Chí” hay ít ra chữ “Chí” mang một nghĩa sâu hơn và nhiều mặt hơn. Nó mang theo cả triết lư sống, đôi khi cũng ẩn dụ và viễn tưởng.

Thơ của Bà không thoát khỏi qui luật đó, chí ít cũng ở thời lăng mạn. Về sau, những thập niên 50-70 thi ca muốn thoát hẳn cái cũ, cái qui luật ràng buộc, g̣ bó… bắt thơ phải tuân thủ. Thơ phá cách, phá thể, thơ tự do bắt đầu xuất hiện nhiều, nhưng ở bà vẫn giữ được cái trầm lắng, nhẹ nhàng của thơ thời lăng mạn. Vần điệu và ư tưởng vẫn là chủ đạo trong thơ của bà.

Bà viết nhiều về t́nh yêu Nam – Nữ, lứa đôi, t́nh phụ mẫu, t́nh phu thê nhưng không thiếu những khắc khoải của phận người, những trăn trở suy tư cho thế sự. Về sau bà thiên về Phật giáo. Ngoài thơ bà c̣n viết tùy bút, xă luận.

Với dự định viết về thơ ca của bà, thú thật tôi đă run tay, kẻ hậu sinh như tôi không thể nào nh́n thấu suốt được nỗi ḷng của bà đă gởi gắm trong thơ, cho ḿnh, cho đời, cho nhân sinh.

Vả lại, thơ tự nó đă nói lên và giăi bày, tự nó xác nhận chỗ đứng, nơi hiện diện. Tự nó minh chứng sự có mặt trước người đọc.

Và v́ lẽ đó, tôi xin được trích giới thiệu hai bài thơ, bà viết cách nhau 47 năm: -Một Cái Siết Tay- bài thứ nhất bà viết ở Nha Trang 1/1940, nói về những cảm xúc ban đầu khi gặp và yêu nhà văn B.Đ. Ái Mỹ. Đó, như một thông điệp của định mệnh.

Ở thủa ban đầu yêu nhau, trong thi ca thường là “nắm tay”, “cầm tay”, ít hay không thấy thi sĩ nào sử dụng từ “siết tay” như bà.

Cầm, Nắm, Nâng ..tay em .. tay của Nam –Nữ yêu nhau ở thủa ban đầu, đó là kỷ niệm theo suốt cuộc t́nh dài trăm năm, một cảm xúc hóa thành thanh âm vang măi trong trái tim của hai người. Đó là sự va chạm truyền cảm tinh khôi và trinh khiết. Đó là sự bắt đầu của t́nh yêu và định mệnh …nhưng “siết tay” th́ c̣n hơn thế, đó là lời thệ ước.

Xin hăy lắng ḷng:

 

Một Cái Siết Tay

 

Vạn lời yêu dâng đầy trên bốn mắt

Muôn mê say run rẩy ở đôi môi

Trời! Chiều nay vũ trụ ở đâu rồi

Không thấy nữa khi đôi tay siết chặt

Vô h́nh chưa! Trong bốn làn tia mắt

Hồn anh sang quấn quít chạm hồn em

Run làm sao! Cảm giác rúng đôi tim

Trong cái siết của đôi bàn tay nóng

Em thu náo nức với niềm say

Thu cả t́nh đêm lẫn mộng ngày

Thu vạn ngh́n lời âu yếm nữa

Cả t́nh sôi nổi xuống bàn tay

Em siết tay anh chuyền cảm giác

Những lời âu yếm rúng trên môi

Những lời náo nức trong tim thắm

Em gởi tay anh cả vạn lời.

 

46 năm sau bài thơ đầu, bà viết bài thứ hai -Hai Lần Siết Tay – cũng tại Nha Trang đầu năm 1967, khi phu quân nhắm mắt ĺa đời. Cuộc t́nh từ cái siết tay đầu tiên đến 47 năm sau luôn là cuộc t́nh đẹp, đẹp măi dù thời gian cứ trôi … Hai tráí tim ḥa điệu, biết cùng nhận đắng cay của cuộc đời, cùng vượt nỗi gian nan …và biết cùng nhau giữ măi lửa t́nh yêu ban đầu …Phu quân của bà - nhà văn B.Đ Ái Mỹ - bị tai biến liệt bên phải, chỉ c̣n bàn tay bên trái “ông dùng bàn tay trái níu tay người bạn đời, siết chặt” và “b́nh thản nh́n bà rồi lẳng lặng đi vào giấc hôn mê”.[1] Lần Tay Siết này là tiếng gào thét đớn đau ẩn khuất trong trái tim để trở thành nỗi tiếc thương khôn cùng. Ngày vĩnh biệt, anh siết bằng tay trái [2] bà nuốt nỗi đau ly biệt vào ḷng.

Rơ ràng lời thơ, cũng như bà, cũng nuốt đi niềm đau vào thanh âm khổ hạnh của kiếp người. Không c̣n cái “động”, cái háo hức của cái siết tay lần đầu…mà chỉ là cơn mê trong cái “Tỉnh”, cái trầm mặc. Tất cả trở thành một ḍng khổ đau giấu kín nơi cơi ḷng. Bà đă trải, đă sống, đă yêu và đă chín trong tư duy và trong cách thể hiện.

Hăy cảm xúc và chia sẻ:

 

Hai Lần Siết Tay

 

Từ cái siết tay ban đầu mở lối

Vườn duyên t́nh thắm thiết tuổi đôi mươi

Buổi cảm giao không thốt được nên lời

Tay chỉ nắm trong tay lời ước thệ

Chừ tay ấy bỗng nhiên thành tàn phế

Lời mong trao, môi khó chuyển nên lời

Bốn sáu năm từng chung khổ chia vui

Ngày vĩnh biệt, anh siết bằng tay trái

Người đă khuất…đẹp ân t́nh lưu lại

Tóc màu sương vẫn quí gọi “giai nhân”

Nửa trăm năm như ngọc chuộng vàng nâng

Anh trang trọng giữa hai lần tay siết

Trọn một kiếp song đôi, chừ đoạn diệt

Vắt áo trần nhơ, giả hợp h́nh hài

Trời Lăng Nghiêm hay sắc giới Thiên Thai

Cầu linh phách nhẹ nương vào Bát Nhă.

 

Thơ của bà là cung đàn, nhưng không phải vang lên từ dây đàn mà từ nước mắt và máu của con tim.

Những ḍng trên không phải “nhận đinh” hay “phê b́nh” mà là những lời chân thành của kẻ hậu sinh chiêm ngưỡng bà và chiêm nghiệm thi ca của bà..

 

[1] chú thích của các con

[2]trích Hai lần Tay Siết

 

*

 

2.

Nhà thơ THANH NHUNG

Cuối thập niên 50, chuyện có thơ được đăng ở tạp chí Phổ Thông, lại thêm có mặt trong hai tập thơ chung cùng một năm. Đó như một hiện tượng và Thanh Nhung đă trở thành nữ sĩ, rất trẻ được ngưỡng mộ. Với tính cách đó, sau hơn nửa thế kỷ, tôi nh́n lại.

 

Bà sinh năm 1941 tại Nha Trang và nơi sinh cũng là tên: Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang. Bút hiệu: Thanh Nhung.

Bà là con cả của nữ thi sĩ Tâm Tấn và nhà văn B.Đ Ái Mỹ, thuộc ḍng dơi vua Minh Mạng và thi hào Tuy Lư Vương.

Theo học Vơ Tánh Nha Trang, Quốc Học Huế, Đại học Văn Khoa Sài G̣n.

1963 – Du học Nhật, Mỹ. Năm 1973 lấy bằng Tiến Sĩ Đại Học California ở Berkeley với luận án: Vai Tṛ Truyền Thống của Phụ Nữ phản ánh trong văn học truyền khẩu và văn chương viết của Việt Nam.

Bà nói được 5 thứ tiếng, chu du 20 quốc gia, Giáo sư Đại Học của 4 nước: Malaysia, Mỹ, Nhật và Thái Lan.

 

Về sự nghiệp thi ca:

Năm 1958, Bà có thơ xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bông Lúa rồi Phổ Thông của cố thi sĩ Nguyễn Vỹ. Cùng năm này bà có mặt trong hai tập “Tiếng Thơ Miền Trung” với Cao Hoành Nhân, Từ Thế Mộng ….và “Hoa Mười Phương” với Định Giang …Lúc đó bà mới 17 tuổi. Bà có thơ đăng thường xuyên ở Phổ Thông đến 1965. Những thập niên sau bà cộng tác với các báo và tạp chí nước ngoài như: Văn Học và Nghệ Thuật, Văn Học,Vietnam Culture Journal …và đă xuất bản một số sách viết bằng tiếng Anh trong đó có bộ tiểu thuyết 2 tập The Moon of Ḥa B́nh [1994] đồng tác giả với chồng là : William L.Pensinger.

Bà hiện sống cùng chồng ở Nha Trang .

 

Ở đây tôi xin nói -một chút- về thi ca mà không nói đến tác phẩm văn xuôi bằng tiếng Việt hay tiếng Anh của bà. Gia tài thi ca của bà không nhiều, không đồ sộ, không nhiều đầu sách, nhiều trang in….Nó chỉ vỏn vẹn có 50 bài thơ đủ các thể loại bà viết từ 1958 đến 2000. Như một bức tranh khung nhỏ, khiêm nhường, được gắn ở khoảng không gian tĩnh lặng, lẻ loi, trong một thế giới trưng bày hoành tráng của thi ca đương đại, nhưng bước chân người thưởng ngoạn lại dừng lại -rất lâu- trước bức tranh khung nhỏ, lẻ loi ấy của bà.

Tôi vẫn không làm sao t́m được những sáng tác sau năm 2000 của bà .

Năm 1963 bà du học ở Nhật. Thời đó đi du học là chuyện cực hiếm, nó càng hiếm hơn khi dành cho giới nữ. Lúc đó bà 22 tuổi, một cánh chim non tung cánh vào băo táp của cuộc đời. Cuộc ra đi này, theo tôi, đă ảnh hưởng sâu sắc đến thi ca và cả cuộc đời của bà. Cuộc ra đi dài cho đến gần hết cuộc đời bà mới có cuộc -thật sự- trở về.

Đó là cuộc chia tay mà cuộc đời đă dành cho bà, như một định mệnh.

 

Về h́nh thức thể hiện:

Bà sử dụng hầu như hết các thể thơ: 8 chữ, 7 chữ, 5 chữ chia đoạn, 4 chữ, lục bát, thể kết hợp và tự do…xuyên suốt trong quá tŕnh sáng tác của bà. Đặc biệt là Thể Kết Hợp. Thoạt nh́n ta có thể lầm tưởng đó là thơ tự do, nhưng không, bài thơ tuân thủ qui tắc vần, ngữ pháp, ngữ nghĩa của từng thể thơ, nhưng không độc lập, riêng rẽ mà liên kết lại thống nhất âm điệu và ư tưởng. Có ít tác giả sử dụng thể kết hợp thành công như bà. Tôi xin đơn cử:

 

Chắp tay van gió nằm im

Đừng đưa vẳng mấy lời chim gọi đàn

Tiếng hồn vừa mở

Tiếng hồn than van

Bốn phương trời đất dường tăm tối

Sao khóc t́nh yêu, chết vội vàng

[trích Hoang Dại trong “Hoa Mười Phương”-1959]

 

Ba thể: lục bát, 4 chữ, 7 chữ trong một bài. Vần “an ‘ –câu 2: gọi đàn –câu 4: than van -câu 6: vội vàng. Đó là sợi dây kết nối, thống nhất của 3 thể loại trong một bài thơ. Không khó nhưng cũng không dễ để h́nh thành thanh âm xuyên suốt như vậy.

 

Về nội dung:

Người đọc không khó để nhận ra rằng, sáng tác của bà có hai thời kỳ, rất rơ, rất tách bạch .Thời kỳ đầu, từ trước 1958 đến tháng 4 năm 1963 Trong thời kỳ này bà c̣n chịu ảnh hưởng nhiều của thi ca lăng mạn [1932-1945,] về h́nh thức lẫn nội dung. Thơ chỉ nói đến cái tôi của chính ḿnh, sự ích kỷ cần thiết cho giai đoạn mở đầu của một tác giả, viết về những cảm xúc rung động của ḿnh và cho ḿnh. Viết cái ở trong và riêng ta. Gần như hầu hết các nhà thơ khởi viết đều viết về t́nh yêu của chính ḿnh, bà cũng không ngoại lệ. Dường như bà biết yêu rất sớm:

 

Tóc mây ḥ hẹn tuổi mười lăm

Mắt-đọng-sầu–tư vẫn khóc thầm.

 

Và cái bóng dáng t́nh yêu ban đầu ấy cứ lớn theo tḥi gian, chập chờn rồi choáng ngợp trái tim, thi ca của bà bị cuốn theo. Mộng mơ. Hạnh phúc. Khổ đau. Giận hờn. Oán trách. Nỗi rung động và xúc động đầu đời bậc lên thành cung điệu, thành thơ. Nhưng, dù trong nỗi đau nào, cũng giữ được sự đằm thắm, dịu dàng, không phẫn nộ, không lộng từ…đúng như tâm hồn tĩnh lặng, sâu lắng của bà.

 

Bốn phương trời đất dường tăm tối

Sao khóc t́nh yêu, chết vội vàng

[trích Hoang Dại /Hoa Mười Phương, 1959]

 

Hai vỡ tan c̣n ghi kỷ niệm

T́nh Yêu? C̣n lại chút ǵ đâu

Ngày mai khi khép hoài đôi mắt

Ôm lấy niềm đơn xuống huyệt đài

[trích Kiếp Sầu/Sài G̣n 12/9/1961 ]

 

Ngăn-cách-cuộc-đời xâu xé hồn nhau

Sầu đă biến ḍng thơ thành suối lệ

[trích Những Mùa Xuân – Sài G̣n 29/12/1961]

 

Bà thể hiện sự đau khổ tận cùng, tiếng thơ cũng chỉ là nổi khứng chịu số phận của riêng ḿnh:

 

Xác thân vùi với niềm đau khổ

Là hết, là xong một cuộc đời

……….

Tỉnh giấc, trời ơi, hồn ngẩn ngơ

………….

Người xa - thương nhớ là dao chém

Từng nhát vào tim ứ tủi hờn

[trích Oán Trách /Phổ Thông số 88-9/1962]

 

Những cảm xúc, bâng khuâng, ṭ ṃ khám phá. Của đợi chờ mộng mơ. Của hạnh phúc ban đầu. Thời của tan vỡ, tiếc nuối, đau buồn, thơ của bà bấy giờ vẫn mang một sắc thái riêng: óng mượt và lung linh.

 

Thời kỳ từ 4/1963 trở về sau:

Cuộc chiến chống Pháp kết thúc 20/ 7/1954. Nhưng cuộc chiến ác liệt vẫn tiếp tục ở quê nhả. Trái tim nhỏ bé của bà, ở cách xa vạn dặm, qua một đại dương bao la, măi tận phương trời …đă nghe và đă thổn thức. Bà bỗng ngộ ra rằng bấy lâu nay bà ch́m đắm trong nỗi riêng của cơi ḷng, của riêng bà, rất đỗi vị kỷ. Tâm sự đó bà gởi vào “Hướng Tâm Tư “ viết tại Tokyo ngày 25/4/1963.

 

Ôi những ngày xưa rất dại khờ

Tháng năm quằn quại khổ v́ mơ

…………….

Một sớm niềm kiêu hănh hiện về

Mang linh hồn khỏi ngục đa mê

Điềm nhiên dứt bỏ thời hoang dại

Có những lời thơ rất năo nề

 

Cuối cùng, như một cánh bướm thoát ra khỏi kén, tung bay vào không gian, thơ bà đă mang thêm một ư nghĩa về cuộc chung của kiếp người. Bà dấn thêm một bước vào cảm xúc về nỗi khổ đau của đất nước, của quê hương, của đồng bào, và bà hạnh phúc với sự chuyển hướng này.

 

Hồn nở t́nh thương đẹp lạ lùng

Trao về linh khí của non sông.

Hạnh phúc trào dâng đến nghẹn lời

Nghe ḷng chuyển hướng rộng chơi vơi

[trích Hướng Tâm Tư, Tokyo 25/4/1963]

 

Thi ca của bà lúc này có thêm một mảng thi ca dấn thân, chất đấu tranh ẩn khuất trong những thương cảm, lo âu. Từ nơi xa xôi gởi về quê nhà. Nỗi ḷng bà đă trải ra, tấm ḷng bà đă xót thương, nước mắt bà đă rơi. Thơ của bà giờ đây đă mang tính chiến đấu, hy sinh và cống hiến cho quê hương hơn cái tôi của ḿnh.

 

Xót xa nghe chuyện điêu tàn

Hỡi ơi! quê mẹ muôn vàn thương đau

[trích Khắc Khoải – Tokyo 29/91963]

Ḷng đất quê hương quặn niềm ly tán

Cho nỗi hờn câm ngùn ngụt tinh cầu

……………….

Đất mẹ rưng rưng ôm những h́nh hài

[trích U Uất, Phổ Thông số 137, 11/1964]

 

Trái tim nhỏ bé, côi quạnh ở măi phương trời xa tắp, đă nghe –không những tiếng bom rền đạn nổ, tiếng gào thét của quê hương. Bà c̣n nghe cả tiếng nỉ non, khấn nguyện, thầm th́ của những người mẹ, tiếng khóc của trẻ thơ…

 

Nghe từ mẫu đêm nh́n đèn tâm sự

Hai tay gầy và mắt lệ xin ơn.

Cho hơi ấm của mùa xuân ấp ủ

T́nh thương yêu làm nhẹ mối căm hờn

[trích Mùa Xuân Mong ĐợiBerkeley 11/11/1968 ]

 

Thời kỳ này, cảm xúc dâng trào choáng ngợp, đè nén và bộc phát thành thơ, nó phá vỡ hết qui tắc, niêm luật, g̣ bó của thơ lăng mạn, thơ mới. Bà vượt qua, thoát khỏi và hầu hết tác phẩm thời kỳ này bà viết theo thể thơ Tự Do. Từ cái phóng khoáng, thênh thang, cái cởi mở của thơ tự do, người viết mới viết hết ư tưởng của ḿnh muốn gởi gắm. Tuy nhiên “vần” vẫn được bà sử dụng như cách tạo âm, thơ bà vẫn mang tính nhạc điệu, tôi nghĩ, bà đă áp đặt tu-từ-mới cho thơ tự do.

 

Mẹ già không nhặt xác con

Đem xây nền dân chủ

Những xác co ro trong đất mẹ hao ṃn

Nỗi khao khát âm thầm thôi có bao giờ tự thú

[trích Xin Cúi Xuống Thật Gần, Kuala Lumpur , 20/1/1975]

 

Có người nói thơ “là cấu trúc của trí tưởng tượng” tôi hiểu đại để là “trí tưởng tượng có trước ngôn ngữ thi ca, có trước thơ”. Nó có thể đúng ở một “diện” nào đó của một giai đoạn. Tuyệt nhiên nó không phù hợp với thơ của bà trong thời kỳ này. Cái cảm xúc có thật và có trước ngôn ngữ thi ca, có trước thơ. Tiếng động của âm thanh, của súng đạn, của xương máu, đó là sự hiện-hữu-có-thật…làm nên cảm xúc, bà mới viết thành thơ. Thơ gần như hoàn toàn không cần và vượt khỏi trí tưởng tượng.

Và thơ của bà giai đoạn này là “Thơ, đó là những cách đi tới nơi tận cùng của ư thức” [Laurence folinghetti –nhóm nhà thơ-Không Tùy Thời-1950 Hoa Kỳ ] và “Ngôn ngữ thi ca là ngôn ngữ của cuộc sống “[Luân Hoán]. Tôi nghĩ như vậy.

Bà cũng như người mẹ -nữ sĩ Tâm Tấn- hội đủ: Tài Năng, Đức Hạnh và Thanh Sắc.

 

Ngày về

Ra đi ở tuổi 22, phải gần hết cuộc đời bà mới -thật sự- trở về. Căn nhà nơi bà sinh ra giờ đây mái đă rêu phong, ṿm bông giấy trước nhà đă không c̣n, tiếng cười cũng vắng xa. Đàn em, mỗi nguời một phận, tứ tán khắp phương trời. Chốn cũ, nay chỉ c̣n h́nh bóng lẻ loi, đơn độc, âm thầm của mẹ già. Và, ôi những dấu chân ngày nào đă in trên bờ cát trắng của thuở lên mười, gói đậu phụng rang gởi trọn nỗi ḷng của ai đă trao thời niên thiếu….cùng với tiếng sóng của biển khơi th́ thầm…của một thời đă xa...rất xa.

Thời gian có thể đă xóa mất đi biết bao điều của đời người nhưng tôi đoan chắc rằng những kỷ niệm kia c̣n măi nơi cơi ḷng bà, ngày nào bà c̣n nghe tiếng sóng th́ thầm, c̣n nh́n thấy biển quê hương.

 

Chu Trầm Nguyên Minh và Nguyễn Tùng Vân

Sài G̣n 1/2013

 

Nguồn Quán Văn số 13 thảng 3/2013