Trịnh Cung
Luân Hoán
Chuông điện thoại reo. Nắm chiếc phone mate PM5820, tôi nh́n vào ô giữ số người gọi đến. Hàng số 714-839.63...thật rơ nét, nhưng nhớ không ra. Số code 714 khá quen thuộc, nhắc tôi vùng quận Cam Hoa Kỳ. Dù có thể không phải một người bạn, chắc cũng là người Việt thôi, tôi nhấn nút talk, nhỏ nhẹ:
- A lô, xin lỗi…
- Có ông Luân Hoán ?…
- Tôi…a, anh Trịnh Cung phải không ?
- Trịnh Cung đâu mà Trịnh Cung, Trịnh Cung nào rảnh mà gọi cho ông…
- Tôi vừa được anh Lữ Quỳnh cho số điện thoại, đang định gọi thăm anh đây
- Gọi cho Việt Cộng không sợ bị đánh à ?
- Ố, lúc này t́m ra được một tên Việt Cộng khó lắm anh ơi
- Mẹ kiếp, ông không thấy bọn chúng chơi bẩn với tôi sao ?
- Bẩn ? Chuyện ǵ
- Th́ trên Gió O, gió A ǵ đó chơi tôi sát ván ông không biết à ?
- Ờ, tôi có biết, có nghe nói, nhưng chuyện đó thường thôi mà
- Sao lại thường, không quen không biết, không đụng chạm lại mang người ta ra phê phán thiếu căn cứ, hồ đồ không ra làm sao cả
- Thôi bỏ qua đi anh ơi, chuyện văn học nghệ thuật mà, có vậy mới phong phú. Tôi có đọc một vài bài viết về anh trên Talawas, về một vụ phỏng vấn, cụ thể ra sao ?
- À..
Cái giọng
vừa Trung vừa
- Hoán hả, xin lỗi nghe, thằng con ḿnh vừa gọi cho biết con chị nó bị đụng xe
- Đứa nào, có sao không anh ?
- Th́ con Vương Hương chứ đứa nào nữa, nó đang chạy bị húc từ phía sau tới, hư xe nhưng người không sao, thằng Luân Vũ đă chạy đến đó rồi
- Như vậy cũng yên tâm, bên này đụng xe là chuyện thường mà, sao buổi văn nghệ tưởng niệm anh Sơn thành công không ?
- Thành công hơn mong đợi. Tôi không ngờ bọn trẻ tổ chức rất tốt.
- Nhóm tổ chức là con anh mà.
- Ờ đúng, thằng Luân Vũ con tôi và nhóm The Friends của nó khởi xướng, tổ chức. Bọn trẻ thật có ḷng, có khả năng.
Câu chuyện giữa chúng tôi đi vào đêm Phúc Âm Buồn Của Trịnh. Một sinh hoạt văn nghệ được một nhóm trẻ tại quận Cam California tổ chức để vinh danh nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Những chỉ trích dành cho người nhạc sĩ tài hoa, đă gần như lắng dịu hoàn toàn trên vùng đất được mệnh danh là thủ đô người Việt tị nạn. Hơi muộn, nhưng chúng ta vẫn c̣n giữ đúng được vị trí cội nguồn của người nhạc sĩ. Đêm nhạc vinh danh, tưởng niệm được tổ chức lúc 7 ǵờ tối đến 10 giờ tối ngày 01 tháng 4 năm 2006 tại Santa Ana High School Audiorium, số 520 W. Walnut Street, Santa Ana California 92701 USA. Họa sĩ Trịnh Cung, thân phụ của nhạc sĩ dương cầm Vương Hương và nhạc sĩ vĩ cầm Luân Vũ, đều là thành viên của ban tổ chức, nên được mời dẫn chương tŕnh cho buổi sinh hoạt. Đây là một chọn lựa thích hơp, dù Trịnh Cung vẫn c̣n ở tận Việt Nam, nhưng ông là một người bạn thân thiết và được xem là một trong hai người, biết và hiểu rơ về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hơn nhiều người khác.(người c̣n lại là họa sĩ Đinh Cường)
Trong các thập niên 60, 70… Trịnh
Cung, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn là ba nhân vật
rất lẫy lừng trong sinh hoạt nghệ thuật tại
miền nam Việt
Trịnh Cung tên thật Nguyễn
Văn Liễu, ra đời năm 1939, tại làng Trạch,
cạnh bờ biển đẹp nhất Việt
V́ mê thơ, đặc biệt thích những bài thơ viết về xứ Huế, Nguyễn Văn Liễu đến đất cố đô và vào học Cao Đẳng Mỹ Thuật từ năm 1957. Hội họa đă thổi lớn Nguyễn Văn Liễu từng ngày. Tuy vẫn c̣n lai rai làm thơ, nhưng anh đă đặt hết ḷng cho sơn cọ. Bút danh Trịnh Cung được khai sinh, mỗi ngày một lớn mạnh. Cũng trong thời gian này, phong trào sinh hoạt văn học nghệ thuật tại thành phố Huế phát triển rất mạnh. Những bút hiệu thường xuất hiện trên các tạp chí ở Sài G̣n có thể kể: Lữ Quỳnh, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Bửu Ư, Hoàng Phủ Ngọc Tường…và hai khuôn mặt nữ từ Nha Trang ra tạm trú: Cao Hoành Nhân, Thanh Nhung (tên thật Tôn Nữ Nha Trang)…Trịnh Cung chơi thân với Đinh Cường, Trịnh Công Sơn. T́nh bạn sớm giúp họ tạo ra cái không khí sinh hoạt thật sinh động hào hứng, khởi sắc. Theo tiết lộ của nhà biên khảo Nguyễn Đắc Xuân, trong giai đoạn này, Trịnh Cung để ư và si mê một cô sinh viên văn khoa Huế có tên là …Nh.Hg và viết được bài thơ để đời “Cuối Cùng Cho Một T́nh Yêu”. Ông Nguyễn Đắc Xuân viết tiếp:
“…Trịnh Cung thú
nhận cho đến nay Nh.Hg đă có gia đ́nh, có cháu nội,
cháu ngoại mà vẫn chưa biết bài thơ phổ nhạc
bất hủ ấy Trịnh Cung đă làm cho chính ḿnh”
Nhưng trong một bài viết “Người T́nh Cuối Cùng Của Trịnh Công Sơn Là Ai ?” phổ biến trên trang web Vietnam.net, vào ngày 28 tháng 02 năm 2005, Trịnh Cung cho biết:
“…Đánh
dấu lớn nhất và dài lâu nhất cho t́nh bạn giữa
tôi và Sơn chính là bài thơ “Cuối Cùng Cho Một T́nh Yêu”
tôi viết vào năm 1958 ở Huế và Sơn đă phổ
nhạc vào khoảng giữa năm 1959, trước ca khúc
Diễm Xưa và chỉ sau các ca khúc Ướt Mi,
Thương Một Người và Nh́n Những Mùa Thu
Đi. Nhiều người đă hỏi tôi viết ca khúc
này cho ai ? Anh bạn, nhà nghiên cứu Huế học Nguyễn
Đắc Xuân đă xác định bài thơ ấy viết
cho Nh. Hg, một nữ sinh trường Đồng Khánh (Huế)
nhưng thật ra không phải như vậy.
Tôi có nhắc đến
cô ấy v́ vẻ đẹp rất Huế của Nh. Hg.
Nhưng bài thơ ấy là một hư cấu để
nói về những năm tháng đầu tiên của một
sinh viên tỉnh lẻ từ say đắm đến thất
vọng trên con đường t́nh của Huế. Ca khúc
này, Sơn đă làm cho bài thơ tầm thường ấy
trở nên bất tử trong nhiều thế hệ người
Việt. Điều này tôi không chờ đợi khi
chơi với Sơn. Có nhiều năm, gia đ́nh Trịnh
Công Sơn in sách nhạc và các nhà xuất bản băng
đĩa đă không in tên tôi là tác giả của lời nhạc,
v́ thế có rất nhiều giới trẻ ngày nay và có lẽ
cả mai sau không biết điều này. "Sống trong
đời sống cần có một tấm ḷng, để
làm ǵ em biết không? Để gió cuốn đi" (Trịnh
Công Sơn). Tôi đang sống với khái niệm: Để
Gió Cuốn Đi…”
(Trịnh Cung, http://www.vnn.vn/vanhoa/vandekhac/2005/02/380186)
Có lẽ rất dễ bắt gặp một chút chua chát ở đây. Việc Trịnh Công Sơn phổ thơ Trịnh Cung, c̣n sinh thêm một giai thoại, mà nhiều người cho là ca sĩ Khánh Ly kể lại, đại ư như sau:
Để dứt khoát với thi ca, chú tâm vào hội họa, năm 1963, tại căn nhà trên đường Trương Minh Giảng Sài G̣n, Trịnh Cung đă đốt bản thảo tập thơ của ḿnh. Anh vừa đốt vừa khóc. Tiếng khóc của anh đă làm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tỉnh ngủ, sau hành tŕnh từ B’Lao về Sài G̣n. Sơn vội vă và chụp và giữ lại được bài thơ Cuối Cùng Cho Một T́nh Yêu, sau đó đem phổ nhạc. Giai thoại này thiếu chính xác ở thời điểm ca khúc được h́nh thành theo lời kể của chính Trịnh Cung ở trên. Dù vậy, giai thoại này cũng có một điểm rất đẹp, ở chỗ Trịnh Cung vừa đốt thơ vừa khóc. Cử chỉ này rất dễ xảy ra với một người đa cảm, và trân quí những tác phẩm của ḿnh như Trịnh Cung. Theo họa sĩ Đinh Cường, bài thơ của Trịnh Cung được Trịnh Công Sơn phổ nhạc tại Huế, trong giai đoạn cả ba cùng cư ngụ tại đất thần kinh. Bài thơ Cuối Cùng Cho Một T́nh Yêu v́ đối tượng nào mà thành h́nh cũng không là điều quan trọng. Điểm chính là tài nghệ làm thơ của Trịnh Cung với lối dùng từ rất mới của anh. Tôi rất thích những từ: ừ, đói, rỗi, đầy…trong bài thơ. Sự ly biệt vừa như một lẽ đương nhiên vừa như miễn cưỡng. Bối cảnh chung quanh cùng những h́nh ảnh góp phần làm giàu thêm nỗi ngậm ngùi của một cuộc t́nh tan vỡ:
“
ừ thôi em về/ chiều mưa giông tới/ bây giờ
anh vui/ hai bàn tay đói/ bây giờ anh vui/ hai bàn chân mỏi/ thời
gian nơi đây/ bây giờ anh vui/ một linh hồn rỗi/
t́nh yêu xứ này/ một lần yêu thương/ một
đời băo nổi/ giă từ giă từ/ chiều mưa
giông tới/ em ơi, em ơi ! / sầu thôi xuống đầy/
làm sao em nhớ/ mưa ngoài song bay/ lời ca anh nhỏ/ nỗi
ḷng anh đây”
(1958, TRỊNH CUNG)
Trịnh Cung tạm ngưng
làm thơ là một điều đáng tiếc có thật. Anh
dành trái tim cho hội họa. Nhờ thế từ một
tay vẽ “…chỉ vài đường
nét lớt quớt…” như Từ Thế Mộng nhận
xét, Trịnh Cung trở thành một họa sĩ thành danh
mau chóng ngay sau khi tốt nghiệp và chọn địa bàn
Sài G̣n để phát triển tài năng vào năm 1962. Cuộc
triển lăm chính thức đầu tiên của Trịnh Cung
khai mạc tại Sài G̣n năm 1962, cùng với hai họa sĩ
Tôn Nữ Kim Phượng và Đinh Cường, tại Pḥng
Thông Tin Đô thành Sài G̣n. Tuy chỉ là một cuộc triển
lăm chung nhưng đă mở màn cho nhiều cuộc triển
lăm riêng và chung tại quốc nội lẫn hải ngoại:
Giữa giai đoạn sự nghiệp hội họa đang phát triển tốt đẹp, Trịnh Cung nhận được lệnh nhập ngũ. Anh vui vẻ chấp hành đúng quan niệm của ḿnh:
“…Tôi
chấp nhận đi Thủ Đức bởi v́ tôi không
muốn sự bất hợp pháp. Tôi là một công dân, tôi phải
làm việc của người công dân, cho dù chính quyền
đó có thối nát, có ǵ đi nữa. Tôi không chấp nhận
sự bất hợp pháp nên tôi đi lính. Tôi thi hành nghĩa
vụ của ḿnh…”
(Bi Kịch Trịnh Công Sơn- http://phuongvy.com/next/truyen/trinhcung/bikichTCS.htm).
Trịnh Cung có một thời gian phục vụ tại quân trường Bộ Binh Thủ Đức. Từ năm 1970 đến năm 1973 anh dạy hội họa tại Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế và Quốc Gia Mỹ Thuật Sài G̣n.
Vào một ngày cuối tháng
4-1975, nhà sinh hoạt xă hội Đỗ Ngọc Yến cùng
một nhà báo người Mỹ đến mời nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn cùng gia đ́nh di tản sang Hoa Kỳ.
Nhưng tác giả Diễm Xưa từ chối, trong lúc Trịnh
Cung thú thật rất muốn ra đi, nhưng không được
đề nghị cấp phương tiện. Nhờ đó,
anh có ba năm thụ huấn chính trị cùng lao động
trong một số trại tù của Cộng Ḥa Xă Hội Chủ
Nghĩa Việt
“…Bà
xă tôi, lúc c̣n sống, là một người vợ hiền
khó kiếm. Không bao giờ tiêu xài riêng cho ḿnh (kể cả
mỹ phẩm và đồ lót), tất cả tiền bạc
có được đều dành chăm lo cho cuộc sống
của chồng con. Ngoài ra, c̣n rất hiếu khách và lễ
độ, nhất là dành cho tôi một chế độ tự
do tuyệt đối trong sinh hoạt văn nghệ.
Đó là những đức tính mà vợ tôi thể hiện
suốt 25 năm chung sống trước khi vĩnh viễn
ra đi v́ bệnh ung thư (1997).
Như thế, tất
nhiên, tôi không thể làm ǵ khác hơn là sống nghiêm túc và yêu
thương bà ấy hết ḷng mặc dù biết rằng
việc sáng tác của tôi sẽ bị hạn chế phần
lớn v́ lẽ đó. Tôi đă nhiều lần quay lưng
lại với các cơ hội mặc cho sự lăng mạn
trong tôi thời ấy đang ở cao trào…”
(theo Mỹ Thuật)
Năm 1985, Trịnh
Cung trở lại với hội họa. Cũng như Đinh
Cường, kiến thức về hội họa của
Trịnh Cung rất khả quan. Ông Huỳnh Hữu Ủy
cho rằng: “ Trịnh Cung là một
tài năng đặc biệt của nền hội họa
Việt
“…Từ hữu h́nh đến trừu tượng là một chuyển động sáng tạo. Tôi làm theo nhu cầu của chính tôi. Đó là một phát triển tự nhiên trên con đường của thời đại. Hội họa Trừu Tượng đến hậu bán thế kỷ này đă giữ vai tṛ một nền tảng mới cho mọi cuộc xuất phát của nghệ thuật đương đại. Tuy nhiên vẫn có rất ít người hiểu được rằng hội họa trừu tượng không phải là chỗ để ném lên đó bất cứ thứ ǵ của sự thô lỗ và dối gạt, mặc dù chúng ta đang sống giữa thời đại của media. Vật chất chỉ trở nên nghệ thuật khi nó được chọn lựa để hóa thân cho sự gửi gấm của tinh thần. Từ người tiên phong Kandinsky cho đến Tapies là một tiến tŕnh rực rỡ, lâu dài và ảnh hưởng rộng nhất của hội họa trừu tượng so với các trường phái hiện đại khác xuất hiện trong gần một thế kỷ nay. Tôi tin rằng hội họa trừu tượng là nơi thống nhất tinh thần Đông Tây, trong đó sự đóng góp của nền triết lư phương Đông rất lớn. V́ thế chúng ta không khỏi hứng thú khi thấy rằng các họa sĩ châu Á đến với hội họa trừu tượng không có ǵ khó khăn. Sự có mặt của Zao Wou Ki trong hàng ngũ những danh họa trừu tượng của thế giới là một sự thừa nhận điều đó. Thư pháp của Trung Hoa và Thiền đạo của Phật giáo đă được Hartung, Soulage lănh hội và giác ngộ để trở thành những bậc thầy lớn nhất của một thế kỷ Hội Họa Trừu Tượng.”
Theo gợi ư của Ông Huỳnh
Hữu Ủy, Trịnh Cung nói về Hội Họa Trừu Tượng
Việt Nam: “…Đă có một số ít họa
sĩ Việt Nam vẽ tranh trừu tượng từ giữa
thế kỷ này như Nguyễn Gia Trí và Bùi Xuân Phái chẳng
hạn, nhưng phải đợi đến sau 1990 cao
trào mới thật sự xuất hiện ở cả trong
nước và hải ngoại. Kết quả này vẫn là
một lô-gích của một quá tŕnh chuyển động
sáng tạo và một quá tŕnh chuyển động lịch sử.
Những nhân tố chính của cao trào này là những khuôn mặt
của nhóm Họa Sĩ Trẻ Sài G̣n trước 1975, một
phần c̣n lại trong nước và một phần kia
đă ra khỏi Việt
(trích từ Mấy Nẻo đường
của Nghệ thuật và chữ nghĩa- Huỳnh Hữu
Ủy)
Dĩ nhiên cuộc nói chuyện
giữa nhà nghiên cứu, phê b́nh hội họa Huỳnh Hữu
Ủy và họa sĩ Trịnh Cung không chỉ ở vấn
đề hội họa trừu tượng, hai ông c̣n
đề cập đến nhiều chuyện khác liên quan
đến hội họa. Với những câu hỏi có chọn
lựa, cân nhắc trước, Huỳnh Hữu Ủy giúp
chúng ta biết nhiều ư kiến của Trịnh Cung về
nền hội họa Việt
- Ai cũng quan tâm đến vấn đề này (ngôn ngữ tạo h́nh nghệ thuật)
- Họa sĩ Việt
- Nhưng muốn phát triển, phải hội đủ ba điều kiện: họa sĩ giỏi (Trịnh Cung dùng chữ Nghệ sĩ), kinh tế quốc gia, tŕnh độ thưởng ngoạn của công chúng.
- Trong lúc đó, t́nh trạng mỹ thuật Việt Nam hiện tại, thiếu chiến lược cho nền mỹ thuật, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu trong đào tạo, thiếu phổ cập sự tiến bộ của mỹ thuật thế giới, thị trường mỹ thuật trong nước xô bồ, đă “cản trở giấc mơ Mỹ thuật Việt Nam trở thành hiện thực”
Về vị trí của nền
Nghệ Thuật Việt
“…Chúng
ta cũng đang có nhiều cơ may,và cần nắm bắt
để phát triển nhiều hơn nữa. Nghệ Thuật
Việt Nam phải là một tiếng nói đặc thù giữa
các nước Á Phi, rồi tiến
lên chân trời nhân loại hơn: Nghệ Thuật Việt
Và Trịnh Cung bổ sung:
“
Việt
Cũng trong cuộc nói chuyện này, Huỳnh Hữu Ủy gợi ư để Trịnh Cung đưa ra những nhận xét tốt về các sinh hoạt hội họa của hai họa sĩ Nguyên Khai, Khánh Trường. Trịnh Cung cũng nhận xét chung chung, vô thưởng vô phạt về những họa sĩ gốc Việt tốt nghiệp mỹ thuật tại nhiều quốc gia trên thế giới. Riêng tại quê nhà, nơi Trịnh Cung có cơ hội tiếp xúc, theo dơi nhiều hơn, anh nhận xét:
“
Các họa sĩ trong nước vẫn làm việc mạnh,
nhưng những mục tiêu t́m kiếm th́ không rơ ràng và thiếu
đích đến, nhất là thiếu cá tính trong nghệ
thuật.”
Sáu chữ sau cùng của câu nhận xét trên có vẻ hơi nặng chăng ? Về phần ḿnh, đối với tranh trừu tượng, Trịnh Cung cho biết:
“
Tôi vẫn tiếp tục t́m kiếm trên nền tảng của
sự tiến bộ và tâm hồn Việt
Trịnh Cung cũng được Huỳnh Hữu Ủy tạo cơ hội để nói qua một số sinh hoạt vừa qua của anh như việc cùng điêu khắc gia Điềm Phùng Thị lập ra dự án Làng Nghệ Thuật Việt Nam, cuộc triển lăm của anh tại Paris vào tháng 2-1995.
Như hầu hết các họa sĩ cùng thế hệ tại miền Nam Việt Nam, Trịnh Cung rất tâm đắc với nền hội họa của nước Pháp, điều này có lẽ đương nhiên v́ ảnh hưởng bởi mái trường đào tạo. Trịnh Cung không những yêu thích những họa phẩm xuất xứ từ cái nôi Pháp, anh c̣n đặc biệt ưa thích phong cách của các họa sĩ mang quốc tịch của quốc gia Âu tây này. Phong cảnh nước Pháp qua sách báo cũng gây được ấn tượng tốt cho sự ngưỡng mộ chân thành của Trịnh Cung. Năm 1995, Trịnh Cung được đặt chân đến xứ sở ḿnh yêu thích, anh ghi lại:
“…Khi
nh́n thấy những ǵ ở
Ngay từ những ngày khởi đầu đến với hội họa, Trịnh Cung đă sửa soạn cho ḿnh một nhân dáng hoạ sĩ với những nét đặc thù riêng. Anh cho biết:
“Sơn (nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn) rất thích ăn mặc đẹp
và rất ‘bon gout’. Tôi học được ở Sơn rất
nhiều về điều này. Sơn mang kính, tôi cũng mua
kính mang mặc dù cả hai chúng tôi lúc 18 - 20 chưa ai bị
cận thị hoặc viễn thị. Chỉ v́ đẹp
mà thôi”.
Ngoài đôi mắt kính, Trịnh Cung c̣n để râu quai nón. Bộ râu rậm và đen giúp cho cái trán cao, cái cằm hơi nhọn có được sự ḥa hợp cân đối, tạo được nét sắc sảo của nam nhi. Thời trai trẻ anh có vẻ không điển trai như Đinh Cường, Nguyên Khai, Nghiêu Đề…nhưng sức thu hút mắt nh́n từ những người chung quanh chắc chắn lấn lướt hơn các bạn. Thay v́ một điếu đầu lọc, môi anh thả khói qua ống pipe, trong ḷng một bàn tay thân mật ôm gọn ổ lửa lập ḷe. Đi, đứng, ngồi, nói…của Trịnh Cung rất chững chạc, thong dong. Anh có thể là một Saigonnais bậc nhất của những năm thập niên 60. Phong thái của anh càng rơ nét một Parisien khi anh trưởng thành cùng năm tháng và tay nghề. Nh́n những ảnh anh đọng lại trên các con phố đất Pháp dễ nhận ra điều này.
Năm 1997, nhận lời mời của trường Đại học San Francisco Hoa Kỳ, Trịnh Cung hiện diện trên nước Mỹ với tư cách tham quan và thỉnh giảng về Mỹ thuật Việt Nam cho các sinh viên thuộc Trung tâm Học tập Việt Mỹ. Cơ hội ngàn vàng này cũng giúp cho Trịnh Cung có dịp thực hiện những buổi quan sát, t́m hiểu nền hội họa đương đại của Hoa Kỳ. Họa phẩm của Trịnh Cung cũng được giới thiệu đến giới thưởng ngoạn qua hai cuộc triển lăm tại VAALA Galery, Garden Grove, California và tại YEU International Center Washington DC. Cùng lúc này Trịnh Cung cho ấn hành tuyển tập Âm Vang Của Đất (Echo Of The Land), một tập họp bản chụp màu mười họa phẩm trừu tượng của Trịnh Cung. Giới thiệu về buổi triển lăm cùng tác phẩm Âm Vang Của Đất, nhà thơ Khế Iêm, chủ bút tạp chí Thơ tại Hoa Kỳ viết:
“…
Tranh trừu tượng là loại tranh khó, và người
xem không có cách ǵ khác hơn, ngoài bám víu vào những kinh nghiệm
cá nhân của ḿnh. Bởi v́, trừu tượng không
đơn giản chỉ là cách phân bố màu sắc và làm
cho vui mắt. Trừu tượng, nói cho cùng đi, là từ
thế giới trừu tượng, người họa
sĩ đưa người xem ngược trở về
thế giới h́nh tượng và qua đó, tạo nên cảm
xúc. Nh́n lại khoảng đầu thập niên 50, trường
phái Trừu tượng Biểu hiện (Abstract Expressionism)
mà chúng ta thường gọi là trường phái
Từ những
kinh nghiệm căn bản ấy, chúng ta trở lại với
tranh trừu tượng Trịnh Cung. Thời ḱ đầu,
với duy nhất một bức Mùa Thu Tuổi Nhỏ
đă ghi dấu vết tài hoa của người nghệ
sĩ này. Khởi đi từ đây, tính chất lăng mạn
đầy thơ mộng ấy đă được đẩy
tới mức tuyệt đỉnh với những bức
Ḥa Nhạc Trên Sa Mạc, Chân Dung và Mùa Hè. Đặc biệt
với bức Mùa Hè, h́nh thể như muốn tan ra, và rồi
tụ lại, báo hiệu con đường đi tới
của ông, tự nhiên nhập vào tinh thần mà từ thâm
sâu đă là trừu tượng. Và Trừu tượng ở
thời ḱ đầu, với bức Ngày Đầu Của
Ḥa B́nh, mà mỗi người xem, qua h́nh tượng màu sắc,
kinh nghiệm và tưởng tượng của riêng ḿnh, sẽ
nh́n ra được ngay nỗi niềm của một ngày
đầu ḥa b́nh. Đến đây, quay lại bức Mùa
Thu Tuổi Nhỏ, được sáng tác trong chiến
tranh, như mong ước một ngày ḥa b́nh, cái không khí nhẹ
nhàng và êm đềm biết mấy. Nhưng khi có ḥa b́nh thực
sự, th́ th́ sự mong ước ấy tưởng chừng
như không có, thể hiện qua những vệt màu rũ
xuống, muốn khép lại khoảng đời trước
mặt.
Khi chưa có dịp
ra khỏi nước, để nh́n tận mắt thế
giới bên ngoài, chúng ta thấy, ông đă chứng tỏ là
một họa sĩ tài năng. Rồi qua một hành tŕnh dọc
ngang nước Mỹ, đặt chân tới những Bảo
tàng viện nổi tiếng, tiếp xúc với bạn bè,
đă kích thích ông trở lại giá vẽ. Mười bức
tranh được hoàn thành với cùng một tên gọi Âm
Vang Của Đất, đánh số từ 1 tới 10, là
ngợp những cảm xúc của một nghệ sĩ
trước một thế giới rộng lớn của
đất nước người. Những bức số
1,3,4,5,10 làm chúng ta nh́n ra được nước Mỹ,
qua những mảng màu lớn, nhấp nháy đèn đêm,
cao ốc, con người, ẩn dấu những tâm tư,
những rung động không nói thành lời của người
nghệ sĩ đến từ phương Đông. Tinh thần
phương Đông, tính lăng mạn và thơ mộng, có lẽ
là những nét nổi bật qua cuộc triển lăm này. Kết
thúc bài ghi nhận, chúng ta thật sự ngạc nhiên về
những đóng góp của ông, trước kia và bây giờ,
cho nền hội họa Việt Nam, một nền hội
họa quá non trẻ so với bề dày lịch sử hội
họa thế giới. Có thể đây cũng là một
thông điệp ông gửi tới bạn bè, và những thế
hệ sau ông cả ở trong lẫn ngoài nước: nếu
chúng ta không dám đối mặt với những thách đố
th́ chúng ta sẽ không bao giờ vượt qua được
những trở ngại, đôi lúc tưởng như không
thể nào vượt nổi. Và những giây phút trải
qua thử thách, chính lúc ấy, chúng ta mới thực sự
là nghệ sĩ, bởi một điều, khi một nghệ
sĩ đi t́m sự công nhận (hay đă được
xă hội chấp nhận) th́ hắn thôi không c̣n là nghệ
sĩ nữa...”
(Khế Iêm - Cuộc Thách Đố Thơ Mộng - Tạp chí Thơ số mùa thu 1997)
Quỳnh Giao, một nữ
ca sĩ nổi tiếng của âm nhạc Việt
“…
Bức Âm Vang Của Đất số 1 hay số 5 chẳng
hạn làm tôi nghĩ đến các ca khúc về vẻ đẹp
của chiều. H́nh ảnh một buổi chiều của
Lâm Tuyền đă trở lại trong tôi qua bức số 1,
với màu xám xanh nổi trên sắc nâu cam và le lói khoảng
sáng bàng bạc tắt dần. Ở Âm Vang số 5, cảnh
chiều tà với màu hồng xậm chuyển qua tím thẫm
được điểm bằng vệt xanh rất ngọt
làm tôi liên tưởng tới Áng Mây Chiều của
Dương Thiệu Tước. Trong sáng và mát mắt là bức
số 10, tập trung h́nh thể cách giản và trừu
tượng, nghe như nhạc của Mozart, nhẹ nhàng mà
dễ thấm.
Họa phẩm
gây ấn tượng về cảnh đêm ảo diệu
là bức số 3, trên kích thước 1.2m x 1.5m. Màu xanh xám với
nâu hồng im ắng như ngả vào đêm làm nổi vùng
xanh lung linh trong một bài Nocturne của Chopin. Âm Vang số
4 có chất cân đối của tím pha xám trên khuôn nâu cam
vuông vức, là nét rộn ràng chừng mực của Schubert
trong một bài Impromptu. Một bức được ưa
thích ở màu vàng rực rỡ và nóng ấm là bức Âm Vang
số 2, lại gợi nhớ nơi tôi buổi trưa
chói chang ở Hạ Trắng của Trịnh Công Sơn. Gần
đó Âm Vang số 9 có vẻ cuộn chảy của phù sa
bát ngát trên vùng đất tím, ḥa quyện và nhạt nḥa
như một nhạc khúc của Debussy. Lăng mạn và sắc
mạnh, với hai vạt xanh tươi soi nhau ở
vũng tím mù sương bên phải là đặc điểm
của bức số 6, đặc điểm tôi nghĩ là
có thể diễn tả bằng nét nhạc trữ t́nh của
Tchaikovsky hay Rachmaninoff.
Âm Vang Của
Đất số 7 được trưng bày lộng lẫy
ở góc trong của pḥng triển lăm đă gợi nơi
tôi nét rực rỡ đa điệu của một bản
ḥa tấu vĩ đại của Beethoven. Cùng với bức
số 8, đây là 2 tác phẩm có nhiều nhạc tính nhất.
Bức số 8 tôi yêu hơn cả, có màu tím và màu xanh đua
vẽ huyền ảo quanh một mảng kim nhũ như
vàng chảy xuống vực sâu thẳm ở dưới.
Ngắm bức tranh, tôi hân hoan liên tưởng đến một
tấu khúc của Lizst viết cho dương cầm.
Trịnh Cung
đă như một ḿnh dựng lên, hay dựng lại, tất
cả, để hoàn thành 10 tác phẩm và cuộc triển
lăm. Buổi triển lăm c̣n giới thiệu điều tôi
gọi là “Âm Vang thứ
Tranh Trịnh Cung có thể được xếp loại “trừu tượng”, hoặc “hậu trừu tượng”, hoặc một tên gọi bác học nào khác để nói đến một cây cầu nghệ thuật diễn tả một tâm hồn và nhiều cảm xúc Á Đông bằng kỹ thuật và chất liệu Tây Phương. Riêng tôi, tôi t́m thấy trong tranh của ông một sức biểu cảm mănh liệt ở lối cách giản hóa hay trừu tượng hóa sự diễn tả. Cái mới trong tranh Trịnh Cung là sức biểu cảm ngày càng phóng túng và độc đáo hơn, mà có lẽ là lạc quan hơn, khi so sánh với các họa phẩm trước đây của ông. ..”
(Quỳnh Giao, 6/1997)
Nhận định tổng quát về hội họa Trịnh Cung, trong bài viết về Nghệ Thuật Tạo H́nh, nhà phê b́nh hội họa Huỳnh Hữu Ủy cho rằng “Trịnh Cung là một nét trữ t́nh mới của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại”, Ông Ủy viết:
“…Khoảng
những năm 1962-1965 là thời kỳ cực kỳ lăng mạn
của Trịnh Cung với tính cách chủ yếu ở một
không khí lăng mạn xanh pha lẫn giữa Chagall, Modighiani và
P. Klee, tuy nhiên đă đi tới một tính cách riêng là biết
tiết chế và chọn lọc màu sắc, đường
nét, ánh sáng. Bức tranh Mùa Thu Tuổi Nhỏ của Trịnh
Cung trong cuộc triển lăm quốc tế lần thứ
nhất được tổ chức ở Sàig̣n năm
1962 đă gây được nhiều chú ư ngay từ đầu.
Màu sắc, ánh sáng, bố cục, h́nh thể và đường
nét ở đây đă ḥa hợp rất chặt chẽ
để tạo nên sự thuần nhất vững vàng cho
bút pháp…
…Năm 1963, bức
Những Người Bạn được huy
chương đồng trong cuộc triển lăm hội họa
Mùa Xuân và Người Ngồi được chọn để
tham dự triển lăm lưỡng niên tại Paris. Năm
1964, bức Tĩnh Vật Hoa Vàng được chọn
tham dự triển lăm hội họa quốc tế ở
Tunisie, và điển h́nh nhất là bức Trên Vùng An Nghỉ
được tặng Huy chương bạc trong triển
lăm hội họa mùa Xuân Giáp Th́n (1964). Hăy hồi tưởng
lại đôi chút về tuyệt phẩm Trên Vùng An Nghỉ:
Trùm lên toàn thể là một màu xanh xám, gợn lên đôi
nơi màu nâu và hồng, đường nét rất tiết
chế, giản lược, ḥa hợp nhau trong một cảm
thức thi ca siêu tuyệt. Đấy là cảnh tượng
trên một mảng đồi, một giáo đường,
vài cây thông, một thiếu nữ tản bộ và một
con ngựa trắng đang nghỉ ngơi, tất cả
đều được lọc lựa thành những nét
giản phác nhất, đă biểu lộ một không khí hết
sức b́nh yên, thanh thản. Khoảng trống trên bức
tranh càng tạo thêm vẻ tịch mịch trầm lặng,
êm đềm của thế giới muốn đạt
đến.
Trong chỉ một
thời gian ngắn chưa đầy năm năm
(1960-1964), Trịnh Cung đi t́m cho ḿnh một màu sắc
riêng và đă có nhiều chuyển biến như anh đă
công nhận với chúng tôi trong nhiều buổi trao đổi
riêng, từ những màu rực rỡ, nóng ấm, chói chang của
hồi c̣n ở Huế (mang nhiều sức nóng của Van
Gogh), dần dần đă dịu đi nhưng vẫn c̣n
nóng (là lúc anh suy nghĩ nhiều về ḥa sắc của
Ganguin) và sau cùng anh đă dừng lại trên bảng màu
hơi tối và lạnh của một thứ trữ t́nh
xanh và sâu, bay bổng, nhẹ nhàng của Marc Chagall, rất
thích hợp với đời sống tâm cảm của anh
mà chúng ta thấy trên các tấm tranh vừa kể: Mùa thu tuổi
nhỏ, Những người bạn, Trên vùng an nghỉ. Van
Gogh, Gauguin, Chagall để lại nhiều dấu ấn
trên suy nghĩ của Trịnh Cung nhưng trên tranh của
anh th́ lại tan biến thành một bút pháp mới, chẳng
c̣n chút dấu vết nào của các nhà danh họa lừng lẫy.
Trịnh Cung là một
trong những người làm nghệ thuật rất khó
tính, đôi lúc đến độ gần như gay gắt
với chung quanh. Lời nói này của anh, trong cuộc triển
lăm của Hội Họa Sĩ Trẻ năm 1969, do Trung Tâm
Văn Hóa Đức bảo trợ, biểu lộ nhiều
tính cách của anh: ‘Mỗi lần vẽ xong, tôi như vừa
bắt được một sự sung sướng tột
đỉnh, và thấy đầy kích thích để bước
thêm trên con đường mà trong lúc b́nh thường tôi thấy
thất kinh, v́ mỗi ngày mỗi nhiều sâu bọ rắn
rết.’ (in trong vựng tập triển lăm)
Những năm về
sau, vẫn lối sử dụng màu cũ nhưng h́nh thể
th́ đi đến chỗ cực giản dị. Bày ra một
thế giới lăng đăng của rêu phong và đất
đá được chế ngự dưới cây cọ
tài hoa. Một màu sắc trầm mặc, ch́m ẩn lắng
xuống lặng lẽ rất phương Đông, rất
Việt Nam với những tảng sơn màu xanh xám, xanh
Trung Hoa (Vert de Chine), xanh lam tử dương hoa (bleu
d'hortensia) để vẽ nên thế giới của Đứa
Trẻ Hát Dạo với một cánh chim nhỏ cũng
đang ca hát trên mái tóc ngây thơ và đôi mắt ngơ
ngác, của Nguyệt Cầm, của Mẹ Con và Lồng Chim.
(2) Trịnh Cung đă mang lại cho người thưởng
ngoạn một thứ hoan lạc kỳ diệu, tiềm ẩn
và chứa chan một tâm hồn Việt Nam mà không cần phải
lớn lối ǵ cả, anh đưa chúng ta trở lại
với cái đẹp, cái thơ mộng, cái sung sướng
bởi thế giới anh đă phác dựng nên.
Mấy năm về
sau nữa, dưới áp đảo gay gắt của đời
sống, chiến tranh Việt Nam trở thành một điểm
lửa dữ dội trên thế giới, tranh Trịnh Cung
lại chuyển biến thêm với h́nh thể giản dị
đến cùng cực, để dựng lại một thế
giới của những con người trần trụi giữa
một không khí của màu sắc xám ngắt, đanh lại,
đầy khắc khoải, điển h́nh là bức Khung
Người bày trong kỳ triển lăm chung của Hội Họa
Sĩ Trẻ Việt Nam năm 1973.
Sau 1975, chuyển
qua một giai đoạn mới của lịch sử, mặc
dù bị vây bủa v́ bao nhiêu sự khốn đốn,
nhưng vẫn có một điểm thuận lợi vô cùng
to lớn là đất nước đă hoàn toàn thống nhất,
nghệ thuật của Trịnh Cung cũng bước vào
một thời kỳ mới. Các lớp sóng phế hưng
không c̣n đập rộn ră, tất cả đă lắng xuống;
người từng trải biết bước qua những
khoảnh khắc phù phiếm để sống với cái
vĩnh cửu trong chính ḷng ḿnh. Nghệ thuật của Trịnh
Cung lúc này đượm nhiều màu sắc triết lư mới,
dù là bằng ngôn ngữ biểu tượng hay trừu
tượng vẫn có một vẻ ǵ tịch lặng rất
Lăo Trang…
… Loạt tranh mới
Trịnh Cung thực hiện vào thời kỳ sau này hầu
hết đều có chuyển tải chất tinh thần
trên. Dù đó là một đề tài rất mạnh, dữ
dội đến độ khốc liệt, vẽ chân dung
một nghệ sĩ đang bị đóng đinh trên thập
giá, mà thập giá ấy chính là dàn giáo chevalet của sự sáng tạo. Hay trên
những ghi chép tưởng như rất nhẹ nhàng,
hư ảo, là những mảng trừu tượng Ngày
Đầu Của Ḥa B́nh, Đường Về Mùa Thu, Hoa Lá
và Nước, Trầm Tích Của Mùa Hè, Ánh Trăng của
Debussy, Ngày Cuối Của Chiến Tranh. Sáu bức tranh là một
góp mặt rất khởi sắc của Trịnh Cung sau nhiều
ngày tháng bế tắc với đời sống và sáng tác.
Sáu bức tranh họp mặt trong cuộc triển lăm có vẻ
như muốn phục hưng một số giá trị cũ,
tôi muốn nói đến cuộc triển lăm của các họa
sĩ trong nhóm Hội Họa Sĩ Trẻ trước
đây được tổ chức ở nhà Bảo Tàng Mỹ
Thuật Sài G̣n đầu năm 1994 với Nguyễn Lâm,
Đỗ Quang Em, Nguyễn Phước, Hồ Hữu Thủ,
Nguyễn Trung. Khi các thành phần cũ của Hội Họa
Sĩ Trẻ đang lang bạt tứ xứ th́ những
khuôn mặt c̣n lại ở Sài G̣n cũng đă làm
được chuyện đầy thú vị và hào hứng…”
(Huỳnh Hữu Ủy, Quận
Cam, tháng Mười Hai 1996)
Tôi bỏ qua vài cơ hội làm quen với họa sĩ Trịnh Cung trước 1975. Một cơ hội thuận tiện nhất là vào năm tôi theo theo học trường Bộ Binh Thủ Đức. Thời đó, 1967, họa sĩ Trịnh Cung là một ông thiếu úy làm việc ở Khối Tâm Lư Chiến của quân trường này. H́nh như anh có bổn phận chăm sóc h́nh thức cho nguyệt san Bộ Binh. Tôi có sinh hoạt trong bộ môn báo chí, khá nhiều lần lên “văn pḥng ṭa soạn” để tránh tạp dịch, nhưng tôi chỉ thỉnh thoảng thấy Trịnh Cung từ xa xa. Rào cản giữ tôi không đến gần người họa sĩ tôi rất ngưỡng mộ là cái lon thiếu úy trên cổ áo anh. Thật ra, đây chỉ là lư do phụ. Những tiếng đồn về anh mới là điểm khiến tôi ngại ngùng. Với tin đồn: Trịnh Cung là một người tự phụ, phách lối và thiếu tế nhị trong giao thiệp. Tôi không có cơ hội kiểm chứng những lời phê phán có thể v́ đố kỵ hay v́ một lư do nào đó. Tôi không tin Trịnh Cung là người như vậy. Nhưng để giữ an toàn cho ḿnh, tôi chọn cách “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Thật t́nh tôi cũng không muốn phải “chào tay” anh theo lễ nghĩa quân đội. Tôi cũng ngại bị hít đất, nhảy xổm bất ngờ bởi một người yêu và làm nghệ thuật có tiếng tăm. Tôi giữ cho ḿnh sự mến phục anh được trọn vẹn. Tôi thực hiện lời nói của Đức Khổng Tử “kính nhi viễn chi” cho đến năm 1998. Dù trước đó, năm 1992, Trịnh Cung sang Pháp, ăn, ở và vẽ trong nhà của anh Đặng Tiến một thời gian ngắn. Ông anh phê b́nh gia này có thư tin tôi biết, gởi tặng tôi một bản chụp tranh mới nhất của Trịnh Cung cùng lời ông họa sĩ nhắm thăm. Tôi cũng không mượn cơ hội để viết thư làm quen hoặc xă giao cho đúng lễ nghĩa.
Năm 1998 là thời điểm Trịnh Cung đang thong dong ở Mỹ. Anh có ư định qua thăm nước láng giềng của Hoa Kỳ. Thành phố Montréal ảnh hưởng văn hoá Pháp, Trịnh Cung chọn để dạo chơi là điều đương nhiên. Họa sĩ Đinh Cường gọi giới thiệu và dặn ḍ tôi đôi điều. Tôi và Lư đến nhà một người em của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thăm Trịnh Cung ngay buổi chiều anh có mặt tại Montréal. Tối hôm đó chúng tôi đă chở anh đi dạo. Sự bỡ ngỡ h́nh như chỉ xảy ra chưa đầy vài phút. Trịnh Cung không có vẻ ǵ tự cao hay phách lối. Anh khá giản dị, cởi mở, tuy ăn mặc rất chải chuốt và có vẻ phong độ, rất đẹp…lăo. Những ngày tiếp theo, tôi tiếp tục làm tài xế cho anh, lang thang một vài nơi. Tôi cũng đưa anh về nhà, khoe mấy tập thơ. Trịnh Cung thẳng thắn chê mẫu b́a của tập “Cảm ơn đất đá trổ thơ…” do họa sĩ Vivi thực hiện. Anh hỏi sao không dùng tranh của Đinh Cường, và không quên gợi ư có thể dùng tranh anh, cần th́ nhắn qua Đinh Cường. Thật ra, mẫu b́a tập CƠĐDTT…do Vivi minh hoạ theo dẫn ư bắt buộc của tôi. H́nh vẽ cũng theo ảnh chụp cháu Ḥa B́nh, trưởng nữ tôi. Vivi cũng là một họa sĩ có tài, tốt nghiệp Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật năm 1963, được biết đến một thời với các mẫu b́a Tuổi Hoa, Tuổi Hồng. Vivi cũng là người liên tiếp trong ṿng 9 năm (1967-1975) chiếm giải nhất bưu hoa do Tổng Nha Bưu Điện Sài G̣n tổ chức. Vivi rất chiều, nể bạn, chính v́ vậy anh đă bị tôi hướng dẫn sai lầm chăng ? Trịnh Cung hay bất cứ một họa sĩ nào khác, có lẽ không thích những mẫu b́a bằng bản vẽ minh hoạ. Tôi cho rằng những bản vẽ minh họa có thể không “sang”, không “trí thức” như những tác phẩm thiếu nữ, tĩnh vật, hay trừu tượng bằng sơn dầu. Nhưng chúng vẫn là một tác phẩm nghệ thuật. Sự phù hợp với nội dung ngay sau lưng nó, làm cho bản vẽ có một tiếng nói riêng. Tuy vậy tôi không tranh căi ǵ với Trịnh Cung. Vui vẻ được anh cho sử dụng tranh của anh để làm b́a sách sau này.
Trong một lần hai đứa ngồi chờ ăn sáng trong quán phở Ḥa trên đường Côte Des Neiges, Trịnh Cung, dùng giấy lót muỗng, đũa phác họa vài nét. Chừng năm phút sau, tôi thấy tôi thật rơ trên mặt giấy. Giá trị của vuông giấy dùng ở bàn ăn trở thành quí giá với tôi. Trịnh Cung dặn tôi mang bản vẽ bỏ vào computer điều chỉnh một vài chi tiết ǵ đó, bản vẽ sẽ hoàn hảo hơn, sẽ đẹp ra. Tôi không có khả năng thực hiện được điều hướng dẫn này. Dù vậy cái tôi từ tay Trịnh Cung vẫn rất là Luân Hoán, vừa nghệ thuật, vừa giống như ảnh chụp. Nhà văn Song Thao rất thích bản vẽ chớp nhoáng này.
Gần như thông lệ, bạn văn nghệ nào đến Montréal cũng được báo tin đến một số bạn văn của tôi. Gặp mặt ở nhà hàng, đấu hót ở quán cà phê, la cà phố xá… được thực hiện đầy đủ. Trịnh Cung là một khuôn mặt tầm cỡ lại c̣n mang hương vị quê nhà đậm đà, nên được Song Thao, Hồ Đ́nh Nghiêm, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Minh Đức, Trang Châu, Lưu Nguyễn…dành cho nhiều quí mến, ân cần. Bác sĩ chuyên khoa tâm thần Nguyễn Minh Đức, vốn là một sĩ quan nhảy dù, thay nhà thơ Phạm Nhuận làm “tài lũ” trong mục giải trí bất thường của chúng tôi. Anh mời cả bọn đi xem triển lăm tranh khỏa thân. Khoản đăi đặc biệt này, dành chào đón một họa sĩ có những họa phẩm về thiếu nữ, được đông đảo giới thưởng ngoạn yêu thích. Gallery Solid Gold nằm trên đường Saint Laurent Montréal là một nơi trưng bày rất nhiều tác phẩm nghệ thuật của tạo hóa. Tại đây, vẻ đẹp của cơ thể được các nghệ sĩ sử dụng ánh sáng, tạo ra những bố cục rất gần với nghệ thuật hội họa. Người thưởng ngoạn phải có tŕnh độ cảm nhận, biết thắng tà tâm của chính ḿnh, mới t́m thấy những nét đẹp, tự nó vốn hồn nhiên, thanh khiết. Họa sĩ Trịnh Cung lững thững đi lại trong pḥng tranh. Anh có vẻ suy tư, ghi nhận những nét đẹp anh đọc thấy, qua từng động tác phơi bày, dàn trải. Ngôn ngữ của nghệ thuật có thể là những “hố thẳm của im lặng”. Tiền nhân ta không thiếu những vị cung kính trước những vưu vật này. Trịnh Cung là một họa sĩ, có thể anh bắt gặp, đánh giá cái đẹp có phần khác chúng tôi. Khối cạnh, đường nét là những điểm chính yếu. Trịnh Cung đă tận t́nh hướng dẫn chúng tôi cách đánh giá một đường lơm, một mô vun tinh túy mà những thi hào, thi bá Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…đă một thời ngợi ca. Chúng tôi không có lư do vớ vẩn ǵ từ chối thưởng ngoạn. Một ngụm bia, một hơi thuốc hưởng ké từ những người đồng điệu chung quanh, chúng tôi sống thảnh thơi cùng nghệ thuật. Không biện minh, nhưng dẫu có phân trần cũng chỉ là một khéo léo khoe khoang cái chịu chơi bọt bèo nhất. Sự thành thật là căn bản trong mọi h́nh thức thông tin, kể cả hồi kư kỷ niệm. Cuộc xem tranh của chúng tôi kéo dài không lâu, sau đó trở lại với thú vui đời thường: cà phê và bát phố. Ngày hôm sau, Trịnh Cung dùng tàu hỏa đến thăm thành phố Québec. Anh có chuyến đi thực tế cùng nhà văn Nam Dao, nghe kể rất đạt chất lượng. Nhưng Trịnh Cung lại “x́u x́u, ển ển” thật đáng tiếc. Khi bị căng thẳng lo ngại thường xảy ra hiện tượng này. Khi Trịnh Cung trở lại Montréal, tôi tiếp tục là tài xế cho anh đi mua sắm một ít quà lưu niệm, đồ dùng. Anh có vẻ thích những chiếc áo, mũ đượm màu chinh chiến giàu ngấn bụi thời gian.,
Trịnh Cung trở lại
nhà các con anh ở Hoa Kỳ. Ít lâu sau tôi được tin
anh mắc phải một chứng bệnh ung thư. Không đủ
khả năng chi trả bệnh viện phí ở xứ Mỹ,
Trịnh Cung mang ḷi tḥi bên hông một ống nhựa tháo máu
mủ dư thừa về Việt Nam, đợi ngày lên
đường đoàn tụ với người vợ thân
yêu. Tin buồn của anh được chính thức hóa bởi
một buổi chia tay được tổ chức tại
quận
“…Trịnh
Cung là người cùng quê với tôi và cùng lứa tuổi
tôi. Anh nói với tôi anh sẽ về Việt
Nhưng vào ngày 01 tháng 4 năm 2001, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đă vĩnh viễn đi xa vào lúc 12 giờ 45 phút giờ Sài G̣n. Trịnh Cung vẫn c̣n ở Mỹ. Nguyễn Xuân Hoàng cho biết, buổi Trịnh Cung chia tay bằng hữu ở Hoa Kỳ cũng là buổi lễ vĩnh biệt Trịnh Công Sơn.
Có quen biết Trịnh Công Sơn chút chút, nên trước tin không vui của hai ông bạn mang họ Trịnh, tôi viết mấy câu lục bát, góp cho báo Văn của anh Nguyễn Xuân Hoàng. Bài thơ có tên “Thêm Một Tin Buồn” :
tặng
hai bạn Trịnh, một bạn vừa ra đi và một bạn sắp ra đi
“bạn vàng trong giới
tóc phai
theo nhau rời khỏi
khán đài nhân gian
chuyện tự
nhiên, sao bàng hoàng
người đi
như ngọn khói tan buồn buồn
lần tay sờ
đám xương sườn
đếm thời gian, phỏng
chừng đường c̣n qua
bạn vừa
thành nốt nhạc hoa
bạn sắp
thành tảng màu pha nắng trời
hoàn thành tốt
đẹp cuộc chơi
c̣n thừa âm sắc
để đời yêu thương
sá chi địa
ngục, thiên đường
về đâu cũng một nguồn
hương chân t́nh
lần tay nắn
xương sống ḿnh
biết đâu mai
mốt th́nh ĺnh gặp nhau
cái buồn xoáy rộng
cái đau
nghe trong mỗi ngọn
tóc râu thở dài
bạn đi cỏ
lấp h́nh hài
tôi ngồi buồn
phủ kín bài bi ca”
Bài thơ chia buồn của
tôi, may mắn vô duyên hết một nửa. Bởi khi về
Việt
Trong bài viết: Lột Xác Mỹ Thuật Việt
1- Các sự kiện đă xảy ra, ảnh hưởng đến mỹ thuật:
a/ tọa đàm nhân chuyện phát giải thưởng cho một tác phẩm sao chép lại từ tranh cũ nước ngoài
b/ tọa đàm về thực trạng tranh giả và tranh sao chép
c/ buổi hội thảo ngoài trời về điêu khắc
2- Đổi mới hệ thống mỹ thuật
3-
Cái nh́n mới cho mỹ thuật Việt
Về điểm thứ 3, theo Trịnh Cung nên:
- Thành lập nghiệp đoàn hội họa.
- Tổ chức lại hội Nghệ sĩ tọa h́nh.
- Giải tán những hội nghệ thuật có tính cách cung, cầu.
-
Trả Nhiếp ảnh về vị
trí đúng chỗ của nó trong mỹ thuật Việt
- Tách viện Mỹ thuật ra khỏi đại học Mỹ thuật Hà Nội và nâng cấp.
- Thành lập Ủy Ban Mỹ thuật Quốc Gia.
Những góp ư của Trịnh
Cung cho thấy anh hết ḷng với nền Mỹ thuật
tại Việt
Gần đây, ngày 07 tháng 11 năm 2006, cũng trên Talawas, Trịnh Cung cho đi bài: Từ Nhà Tiên Phong Đến Kẻ Bảo Thủ. Trong bài này, Trịnh Cung tỏ ư không đồng t́nh với họa sĩ Lâm Triết (huy chương vàng, họa sĩ Trẻ Việt Nam, 1962) và họa sĩ Hồ Hữu Thủ. Trịnh Cung cho rằng nhận định “…chẳng ra ǵ cả cái gọi là hội họa ngoài giá vẽ” và phủ nhận những trường phái Sắp Đặt và Tŕnh Diễn là hội họa của Lâm Triết là “một lực cản rất lớn cho hội họa đương đại Việt Nam”. Trịnh Cung không quên khắt khe đưa ra những nguyên do khởi từ những họa sĩ đă già hoặc đang già:
- Thiếu đọc sách.
- Không có thói quen cập nhật tin tức mỹ thuật thế giới.
- Thiếu căn bản về môn lịch sử mỹ thuật, mỹ học.
- Bị di căn bởi bệnh ăn trên ngồi trước, sợ mất ghế.
Bài viết của Trịnh Cung chưa thấy có những góp ư.
Cùng với những bài nhận định về hội họa, Trịnh Cung trở lại với thi ca. Anh làm thơ rất nhiều. Thơ anh vẫn giàu những ư tưởng, và ngôn từ gần như không nhường chân một nhà thơ trẻ tân h́nh thức nào. Xin dẫn chứng một ít bài có trên Web riêng của anh, địa chỉ: http://www.trinhcungartist.multiply.com
CHÚC
THƯ CON BỬA CỦI
Sao em lại đến
Có c̣n ǵ để nhặt
Ngoài hoang phế thân xác và rác rưởi tâm hồn
Cái chết tầm gửi đang hối hả những
giờ phút thèm muốn cuối cùng
Trong khu vườn hoan lạc lấn chiếm sự
lỡ lầm
Của những người đàn bà cầm tinh mèo
cái hoang
Rống rách màng đêm trên nóc nhà cháy mùa động
t́nh
Sao em lại đến
Anh quên cắm biển báo vùng nguy hiểm phải dừng
Dù em có mang mặt nạ chống hơi độc và
áo quần bảo hộ
Cũng xin đừng chạm đến anh
Sự chờ đợi đă bốc men tuyệt vọng
Chất độc sẽ vỡ tràn vung văi bọn
tinh trùng đói khát điên loạn trước giờ tự
sát tập thể
Sao em lại đến
Mọi người đàn bà đă di tản từ
lâu
Mang đi tất cả tuổi thanh xuân và những giấc
mơ hoang đường anh
Bỏ lại khu vườn xum xuê ác mộng
Cây thập tự và những đinh hoen rỉ
Chưa kịp trừng phạt kẻ không thuộc
ḍng dơi chui ra từ quả trứng
Lưu vong đời đời trong cơi chết con
người
Dẫu sao em đă đến
Hăy thả b́nh minh xuống thanh tẩy vùng ô nhiễm
Cứu lấy một sự sống đang lẩn trốn
Trong khu vườn rong rêu thời gian
Ngổn ngang tàn tích quá khứ và những ảo vọng
ngày mai
Cái chết đội nấm ngụy trang cất giấu
bản chúc thư con bửa củi
Chờ cuộc đầu thai thừa kế của
em.
Em hăy kéo cờ xác tín chủ quyền
và tưới đẫm rượu mừng lên đỉnh
linga
Con bửa củi hiện nguyên h́nh chờ em thống
trị
(Trịnh Cung)
GIA
PHẢ TÊN VÔ LẠI
TỔ TIÊN TÔI
Chắc chắn không thuộc ṇi
con rồng cháu tiên
Không chui ra từ quả trứng
Thứ huyền sử chứa đầy tai
ương
Không Đinh Lê Lư Trần
Chẳng họ hàng Tôn Thất
Càng không Quang Trung Nguyễn Huệ
Họ
Suốt bao đời
lính lác thời chiến
mang tơi kéo cày thời b́nh
Theo đóm ăn tàn chống xâm lăng
dây máu ăn phần mở cơi
Họ
loại cùng đinh vô học
trôi sông lạc chợ
không một miếng đất cắm dùi
lơ mơ quê hương
mù mờ tổ quốc
VÀ
TÔI
Vọt ra từ một cơn nứng
chàng trai Quảng
cô gái gánh mắm làng Chụt - Khánh Ḥa
Xăm nỗi bất hạnh từ trong trứng nước
nối sứ mệnh cha truyền
nhân bản kẻ vô lại
Biết không thể tháo bỏ những
cơn thèm muốn khỏi sự sống
loài di căn đeo bám từ thuở mới tinh trùng
khi mỗi sợi tóc rụng đều do ư Chúa
mù điên mê tín
xưng tụng hoan lạc ẩn đen vùng sâu thẳm
đàn bà
nơi những huyền thoại được cứu
vớt
và hơn thế
linh hồn tôi cuối cùng t́m thấy chốn dung thân
RỦI RO TỒN TẠI
Những bước chân thú dữ
loang lổ
đi qua thời gian
uốn éo đường sẹo lừa đảo
cướp của giết người
tôi ươn hèn sống sót qua khe hở chiến tranh
đốn mạt đánh đĩ tự do đổi
lấy khẩu phần hoà b́nh
biết không thể tống khứ cái chết ra khỏi
tâm hồn
Mang hội chứng thừa thiếu
tự do
tôi thu h́nh khép bóng
sống đời thực vật
Rủi ro tồn tại
trên mỗi thành phố của quá khứ
không c̣n ai cư ngụ
những con nợ lịch sử đă bỏ trốn
chỉ oan hồn và chiếc bóng tôi ngây ngô bại trận
vất vưởng
vỉa hè
Mỗi con đường trôi qua
ngổn ngang những giấc mơ lở loét
tôi lang thang t́m kiếm cuộc đời sau
gửi lại hơi thở và những dấu chân
chứng tích cuộc tháo chạy không kịp về
phía le lói sự sống
t́m cơ hội thay h́nh đổi dạng
hôm nay và quá khứ
tôi thủ tiêu tôi.
(Trịnh Cung)
Một bài thơ mới của Trịnh Cung có tên Thiên Sứ Bâng Khuâng, chỉ với sáu câu lục bát nhưng nhờ đến giai nhân để hoàn thành. Bài thơ được viết khi Trịnh Cung sang Hoa Kỳ lần thứ hai. Cũng như Trịnh Công Sơn thích thú với những con chim trời của thành phố Montréal, khi anh sang thăm vào năm 1992, Trịnh Cung ngạc nhiên khi người và chim sống cùng ở Hoa Kỳ. Từ những con chim vừa ăn vừa đùa trên tay một người đẹp, vốn là bạn cũ của Trịnh Công Sơn, Trịnh Cung viết:
“Con
chim về đậu bên người
Là thiên sứ
đó là tôi cũng chừng
Vô t́nh em thả
bâng khuâng
Tôi làm chim nhặt
để phần mai sau”
Trịnh Cung trở về
Việt
“mai
sau thiên sứ về trời
C̣n tôi ở lại
bên người tôi yêu”
Bài lục bát sáu câu này được Trịnh Công Sơn phổ thơ, trước khi anh qua đời, đă phổ biến qua giọng ca Trần Thu Hà và Tuấn Ngọc.
Một việc làm khác của Trịnh Cung gây sôi nổi trong làng sinh hoạt văn học nghệ thuật tại quốc nội là sự đỡ đầu cho năm nhà thơ nữ, c̣n rất trẻ: Lynh Bacardi, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Thanh Xuân, Khương Hà thành lập nhóm Những Con Ngựa Trời. Ngoài việc vẽ logo cho nhóm, anh c̣n trực tiếp mang tuyển tập Dự Báo Phi Thời Tiết của nhóm này ra Hà Nội t́m nhà xuất bản để ấn hành. Tuyển tập thơ phát hành trong tháng 12 năm 2005, ngay sau đó bị thu hồi v́ mẫu b́a và một số h́nh ảnh được cho là kư quái bên trong. Sự cấm đoán đă giúp tập thơ và các tác giả của nó được biết đến nhiều hơn. Và tuy không được phát hành rộng răi, một buổi ra mắt sách đă được tổ chức tại tư gia họa sĩ Trịnh Cung. Anh tường thuật buổi sinh hoạt này như sau:
“Hôm nay, ngày 28 tháng
8 năm 2005, tại thành phố Ḥn Ngọc Viễn Đông,
lễ cúng khai tử những con @ phải gió và lễ rửa
tội khai sinh Những Con Ngựa Trời đă được
lặng lẽ nhưng không kém phần hoành tráng tiến hành
vào giờ hoàng đạo tại Họa Miếu Trịnh Tử,
toạ lạc tại lầu 1 chung cư Đồn Điền
Cạo Mủ bên bờ bến Nghé.
Nghi thức theo lễ giáo Hậu Hiện Đại
nên không dùng nhang đèn, mâm quả, heo sữa quay, gà qué và USD
âm phủ, chỉ rượu Tây, mấy con khô mực và vài
gói lạc rang. Chủ lễ, Pháp sư Quốc Chính, râu hùm
hàm én không để xanh như mọi ngày mà nhuộm đỏ
bằng kinh huyết được nhập từ
Vương quốc các loài hồ, đầu quấn áo ngực
hiệu Triump, tay cầm phất trần bằng x́ líp hiệu
Véra có lót băng vệ sinh siêu thấm Diana, hàng Việt Nam
chất lượng cao, ra hiệu cho Trịnh Tử, Lăo
Cái bang trụ tŕ Họa Miếu dâng sớ cầu khai tử
thơ hiệu những con @ phải gió sành điệu và
tŕnh diện Những Con Ngựa Trời, hay c̣n có tên thân mật
là Đĩ Ngựa, trước vị Chủ tế và Hội
Đồng Nghệ Thuật. Ngoài sự vắng mặt của
các vị hảo hán: Phan Bá, Vương Quân, Lư Chờ, Bùi
Chúa v́ lí do ngoài vùng phủ (dụ) sóng, số hiện diện
ở hàng chiếu trên gồm có các Thi Thúc, Thi Huynh như:
Nguyễn Ziện, Tiến Zũng, Ngộ Nhiên, Minh Có và Mê
Tiến, để được cầu chứng.
Pháp sư Quốc
Chính gọi tên từng con ngựa trời ra thọ lễ,
lần lượt từ Lynh Bacardi, Nguyệt Phạm,
Phương Lan, Thanh Xuân và Khương Hà. Sau một hồi
khảo sát chân cẳng, giáo mác, nhan sắc và thơ thức
của các kiều nữ Ngựa Trời, Hội Đồng
Nghệ Thuật dâng lên vị Pháp sư chủ lễ phong
thư báo cáo kết quả. Ngài Quốc Chính mở thư bằng
chiếc lưỡi dài có khảm đầy hột tiểu
le rồi ngửa mặt lên trần nhà hét to 3 tiếng: “Chịu
không nổi!”. Cả đoàn âm binh cũng đồng loạt
hùa theo hô vang: “Chịu không nổi! Chịu không nổi! Chịu
không nổi!”. Biết đă vượt qua cuộc sát hạch
nín thở, 5 con Đĩ Ngựa vui mừng vung các cặp
thanh long đao đầy khát vọng múa “điệu cuồng
dâm sát thủ” được phụ họa bằng giàn nhạc
một cây guitare thùng, chỉ huy bởi Mê Tiến nhạc
trưởng – người mà báo V&T cho rằng không biết
lấy một nốt nhạc, vừa đoạt giải
nhất Ca khúc An Nam.
Buổi lễ
được kết thúc tuyệt vời bằng bản
Tuyên Ngôn Những Con Ngựa Trời ngày 28 tháng 8 năm 2005
được truyền đạt qua bộ phim có tên
“Anatomy of Hell” của Catherine Breillat. Mọi người hân
hoan hô vang: “Quá đă những Con Đĩ Ngựa! Quá
đă! Quá đă!” trước khi ra về lúc chiều đă
tối.”
(SG, 28 / 8 / 005, Trịnh Cung tường tŕnh tại thành phố Ḥn Ngọc VĐ)
Đọc bài viết của Trịnh Cung, thú thật tôi không khỏi giật ḿnh. Anh viết dí dỏm, dùng từ và h́nh ảnh táo bạo. Có lẽ hơi thở thi ca “tân h́nh thức đương đại” giúp anh mới mẻ, trẻ trung đến như vậy. Lâu nay tôi vẫn tin ḿnh c̣n khá trẻ trung, sung sức, đọc Trịnh Cung mới biết ḿnh tụt lại phía sau anh khá xa. Nhờ trẻ trung, sôi nổi anh đă có thêm trong đời một cuộc t́nh. Hơn thế nữa, anh hoàn tất thêm được một tác phẩm để đời. Dĩ nhiên không tương tự như tập Âm Vang Của Đất, Echo of the land, mà là một tác phẩm sẽ biết nói cười, anh đă cộng tác sáng tác cùng phát hành với nữ sĩ Phương Lan, một thành viên của nhóm Ngựa Trời. Phương Lan tên đầy đủ Nguyễn Thị Phương Lan, ra đời tại Lâm Đồng năm 1981, tốt nghiệp báo chí tại Đại học Khoa Học và Xă Hội thành phố Sài G̣n. Trong một lần điện đàm với tôi, họa sĩ Trịnh Cung có đố “có biết ai trong năm cô là người t́nh của moi không ? Tôi chịu. Trịnh Cung tiết lộ là một cô thông minh nhất, dịu dàng nhất, và ngôn ngữ mới mẻ nhất, nhiều từ chưa có người thứ hai sử dụng.
Chúng ta chắc không lạ với quan niệm “t́nh yêu không phân biệt tuổi tác”. Nhưng trước sự việc Trịnh Cung bước đi một bước nữa, không cần xe hoa, bị khá nhiều dư luận xầm x́. Người ta đố kỵ anh từ những điểm nào ? Từ cái bê rê mà có người coi rất “đĩ” chăng ?, từ hàm râu đă trắng như tuyết ?... Có lẽ chỉ tại cái duyên ngầm c̣n thu hút phái nữ của anh. Sự tài hoa trong hội họa chắc chắn có dự phần. Từ ngày 22 tháng 11-2006, tôi được nhiều bạn văn gởi qua email một ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy trích từ CD có tên Dục Tính Ca. Lời bài hát quả thật có phô diễn một số h́nh ảnh, động tác đời thường. Âm điệu tuy không linh hiển như Cỏ Hồng, nhưng vẫn tha thiết sống thực. Nhà báo Trường Kỳ nhắc “nghe chơi cho…sướng” , nhà thơ Hoàng Lộc cho “thế mới là t́nh yêu” nhà thơ Phổ Đức th́ ân cần mời “nghe để giải cảm”…Thế nhưng không thiếu những đ̣n roi gởi theo gió về cho Phạm Duy. Dù những lằn roi không chắc phát xuất từ những tấm ḷng đạo đức chân thật. Người ta không muốn nghệ sĩ không biết già. Không muốn t́nh yêu nam nữ tồn tại khi tuổi đời đă cao. Phần ai xem ra cũng có lư. Tôi nói vu vơ rất dễ được phát hiện: có thêm một tên già mất nết, thiếu đạo đức. Nói về chặng đường chăn gối mới của ḿnh, Trịnh Cung trả lời một tờ báo tại quốc nội:
“…Đây thật sự
là một áp lực đối với tôi và cả với cô
ấy. Phía trước chúng tôi là cả một tương
lai đầy thách thức và sau lưng là cả một làn
sóng đố kỵ. Nhưng chúng tôi sẽ làm tất cả
những ǵ có thể làm được để t́nh yêu của
chúng tôi được vinh danh và nhất là sự an b́nh cho
đứa con của chúng tôi khi nó chào đời. Nếu
đây là một cuộc hôn nhân lần nữa th́ nó hoàn toàn
được ư thức, phụ nữ nào cũng có khao
khát một lần được mặc áo cưới. Cô ấy
cũng không là ngoại lệ. Để cô ấy nghĩ rằng
ḿnh là một người không may mắn khi phải trở
thành người vợ "không xe hoa" sẽ là một
cái tội của tôi, mặc dù cô ấy không hề đ̣i hỏi.”
Tôi hy vọng Trịnh Cung đang nhận được nhiều lời chúc mừng. Anh không phải là “người vô trách nhiệm” như một nhà văn, quen biết anh, đang ở thành phố Québec than phiền. “Trời sinh voi sinh cỏ” huống ǵ đứa bé c̣n t́nh thương bao la của người mẹ. Người cha họa sĩ dẫu có đi sớm trước sự trưởng thành cũng không là điều đáng lo. Sáng tác được tác phẩm tốt, vẫn nên thuận theo tự nhiên.
- Hello Anh Cung, khoẻ luôn chứ?
- Hoán hả, thường thôi.
- Anh đă nhận được mấy cuốn sách tôi gởi về chưa ?
- Có đến địa chỉ ông cho, nhưng chỉ gặp người giúp việc, không biết sách báo ǵ cả.
- Để tôi bảo đứa cháu mang đến cho anh nay mai
…
- Nghe nói anh sắp trở qua Mỹ chơi ?
- Ờ, có thể….
- Nếu đi, anh xem thử có con…dế mèn nào ngon cơm, mang sang cho tôi một con, để nghe nó gáy chơi
Luân
Hoán