Thơ  MAI KHẮC ỨNG

Tên thật Mai Khắc Ứng
Pháp danh : Nguyên Quang
Bút danh : Tân Lĩnh
Ra đời : Ngày mồng Một tháng Chạp năm Giáp Tuất (05.01.1935)
Quê quán : Xã Tân Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
Dân tộc : Việt
Tôn giáo : Phật giáo
Không đảng phái
Tòng quân : 16.2.1954. Ra quân tháng 10.1954(kháng chiến chống Pháp)
Công nhân Ty Thủy Lợi Sơn Tây : 1955 – 1958
Nhân viên Khảo sát Ty Thủy Lợi Hà Tĩnh : 1959 – 1960
Khoa Sử Đại Học Tổng Hợp Hà Nội : 1961 – 1965
Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam : 1965 – 1980
Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế : 1980 – 1995.
Nghỉ hưu : 1995

 

Những mẫu tự sự đầu đời

Bốn phương trời

Hăm hở đi
Quê Mẹ bỏ sau lưng.
Sông núi gọi
Bàn chân vạn dặm.
Xong trận mạc
Trở về.
Chiến thắng.
Mái nhà xưa
Trong hể hả tay người.
Lại ra đi
Vô định bốn phương trời.
        
Sơn Tây, 1955


Cha

Tuổi xanh 
Cha đã vào đời.
Cuốn theo cơn lốc,
Trọn thời tuổi xanh.
Mười lăm năm
Mộng tưởng thành.
Lại vào tù
Bởi phía mình,
Sướng chưa !
Con đi bắt bóng say sưa.
Tỉnh mơ
Tìm đến
Cha vừa chuyển lao.

Trầm luân xám ngắt trăng sao.
Gặp Cha
Mưa muối
Xát vào lòng con.

Trại giam tù ccrđ Thạch Ngọc, Hà Tĩnh, 1956


Làm lại

Lạc bước
Bạn bè vào đại học.
Vác mia gánh đất lún chân đê.
Bâng khuâng đếm
Tháng ngày ngang dọc.
Làm lại thôi.
Bút mực gọi về.

Sơn Tây, 1956


Tự sự cuối đời

Suối Giải Oan

Gậy trúc chống nát mặt đường.
Uất ức tìm lên với Suối.
Nước sạch muôn người mong đợi.
Giải Oan bao giờ hết oan ?

Chùa Hương, 2.1980

Chỗ Ông nằm 

Mẹ tôi ra đồng mỗi sáng
Mỗi sáng nghe giảng, lòng ông.
Học trò vây quanh tấm phản
Tôi ngồi chính giữa mênh mông.

Mỗi lần học trò ra chơi
Vai ông tôi ngồi hái quả.
Giả đò ông buông tay ngã.
Thét lên mới biết ông đùa.

Mỗi lần học trò ra chơi
Vai ông tôi ngồi ngất ngưởng
Dạo vườn chao ôi là sướng
Đung đưa mấy trái dâu tằm.

Một lần tôi đi tòng quân
Lẩm chẩm tiễn tôi ra ngõ
Chai chân bệnh từ thuở nhỏ
Gậy tre chống dọc tuổi già.

Một lần trời quang mây tạnh
Tôi nghe sét đánh ở nhà
Nông dân vùng lên rất mạnh
Ông không qua nỗi can qua.

Một lần ngồi nghe Mẹ kể
Dì Đảm cõng ông xuống đò.
Xin được cõng cha vào ngục
Người ta dứt khoát không cho.

Một lần tôi về Hộ Độ
Cầu cao lấp kín hai bờ.
Ông tôi bị chôn sống đó.
Hương hồn vất vưởng bơ vơ!

Chỉ xin một lần được biết
Nghìn thu chỗ ông tôi nằm
Chỉ xin báo cho ngày chết
Cháu con hẹn nhau về thăm.

Nghĩa tử đời coi nghĩa tận
Mà sao đến tận bây giờ
Những tên gây nên thù hận
Ba hoa ngảnh mặt làm ngơ.

Biển Đông chừng như dậy sóng
Oan hồn chìm nỗi bao năm.
Ông về đung dưa trên võng
Nhiễu điều lót chỗ ông nằm.


Lụt

Nước vở
Ùa lên bạc một mầu.
Bầy chim mất tổ.
Bay về đâu!
Thuyền nan lôi cả dòng sông chạy.
Non nước tan tành.
Cuộc bể dâu.

Huế, 1999

Gió 

Sắp dông chăng ?
Vâng!
Gió đã ngập ngừng.
Nửa đông - bắc
Nửa tây – nam.
Đỏng đảnh.
Xin đừng bão,
Chỉ làm cơn gió mạnh
Rung đủ tầm sâu rụng
Để cây yên. 

Huế, 2003


Phố Tôn Đản

Lâu rồi nhớ lại phố quen
Một thời Tôn Đản sang hèn phân chia.
Chợ vua ông nọ bà kia
Chợ dân giành giật vỉa hè, xó sân. (1)
“Cái cứt gì cũng chờ phân”.
Lời văn hoa cứ xa gần ví von
Không sợ thiếu giọng nỉ non, 
Không công bằng sợ. (2)
Bà con hả lòng.
Vỉa hè vẫn chợ số đông.
Và Tôn Đản vẫn quý ông quý bà.
Thì ra cũng chỉ thì ra.
Nói cho mát ruột để mà phỉnh nhau.

1. Người Hà Nội một thời coi cửa hàng cung cấp Tôn Đản là chợ vua quan nên đã có đồng dao: “Tôn Đản là chợ vua quan. Đặng Dung là chợ trung gian nịnh thần. Đồng Xuân là chợ thương nhân. Vỉa hè là chợ toàn dân anh hùng”. Lại có câu đố : “Bụng to, trán hói, hay nói ba hoa, đi xe Volga, ăn gà Tôn Đản là con gì?”
2. Danh ngôn nổi tiếng “Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng”.


Nén hương đêm

Mưa lạnh ai lên chấm lửa?
Khói thơm phả trước Thái Hoà.
Len lỏi giữa lau cùng cỏ
Hoang tàn sau buổi can qua.(1)

Hương Giang trăng mờ lảng đảng.
Đại ngôn phố xá ắp loa.
Hoàng Thành Nguyên tiêu thầm lặng.
Nhẹ nhàng hương toả bao la.

(Tử Cấm Thành đêm Nguyên tiêu, 1982)
1.Đầu năm 1947, Hoàng Anh, Tố Hữu ra lệnh bắt dân gánh rơm rạ chất vào đốt cung điện thuộc Kinh Thành Huế.


Vãn say

Họ vừa ra khỏi cuộc say
Cho dù vẫn còn chuếnh choáng.
Tâm hồn loé lên điểm sáng
Soi đường tìm lại ông cha.

Cuộc đời qua những can qua.
Say rồi có khi cũng tỉnh.
Tìm ra con đường chân chính.
Là may cho cả giống nòi.

Hàng bia đứng đó một thời.
Vinh danh một thời đất nước.
Cháu con một thời từ khước,
Bớt say biết trở về tìm.

Văn Miếu Huế, 8.8.2006


Xin trả

Mưa từ tim ướt suốt thiên thu
Sương mù ngợp heo may tình nghĩa
Đất châu Á gió châu Âu là thế !
Khập khểnh hoài không tưởng vẫn lênh đênh.

Ngọn gió kia chẳng quạt đất sinh thành
Sao cứ xoáy làm rối bời xứ lạ!
Sông của thú, rừng của bầy tôm cá.
Lộn tùng phèo nghèo đói giữa Xuân Thu.

Xin trả Luân Đôn tất cả sương mù
Trả Moscau mô hình “xô viết”,
Trả Bắc Kinh tiếng hô hào tha thiết.
Thế giới đại đồng xin gửi trả châu Âu.

Cho dân tôi phần chia của địa cầu
Vốn dĩ được “thiên thư định phận”.
Giọt nước mắt không từ thù hận,
Từ yêu thương đồng loại của bao thời.

Chúng tôi thèm tự do thèm lẽ sống trên đời.
Đừng đội khăn tang muôn năm lý tưởng
Đừng để triệu sinh linh cô hồn vất vưởng,
Vì sự vinh danh một thứ vẽ vời.

Xin trả cho chúng tôi quyền được làm người.


Hạt gạo

Mẹ ngồi nhặt từng hạt gạo
Sàng sảy văng ra giữa nhà.
Bầy gà xông vô tranh cướp.
Mẹ oài chúng chạy ra xa.

Hạt gạo nhỉnh hơn con muỗi,
Bầu bầu như giọt mồ hôi
Một nắng hai sương đồng nội.
Mẹ gom rơi vải suốt đời.

Cháu Mẹ sống nơi xứ lạ.
Hạt gạo có quê từ xa.
Cơm dư.
Bồi hồi bóng Mẹ,
Còng lưng oài đuổi đàn gà..

Montreal, 12.6.2007


Bình minh

Chập choạng tối, may trời cho chút nắng.
Ban mai đánh rơi để mất vô tình.
Tròn lòng tay long lanh nắm trắng
Ta bâng khuâng lội ngược giữa bình minh.

Montreal, 1.8.2007


Con sóc

Mặt mày trông giống chuột
Đuôi lại tựa chồn hôi.
Béo, đẹp, hữu ích
Không đến lượt mày rồi.

Thân bé tẻo teo
Một xiên không đặng.
Mày chạy mày leo
Tròn năm tròn tháng.


Con mèo bên tao,
Có tài bắt chuột.
Con chó bên tao
Trung tín giữ nhà.
Con người bên tao
Hai sương một nắng.
Tự do chúng tao
Còn thua mày xa.
Cuộc đời chúng tao
Còn thua mày xa.

Montreal, 02.8.2007