Cao Tn, thơ người di tn bun

Nguyn Mnh Trinh

 

                                                       Cao Tần Là một thi sĩ xuất hiện một cách bất ngờ trong thời điểm vô cùng đặc biệt. Lúc đó, là những năm đầu kế tiếp sau cuộc di tản của mấy trăm ngàn người Việt lưu lạc sang xứ người. Trong hoàn cảnh bắt đầu của một cuộc sống xa lạ, khởi đi từ những nỗi niềm mang theo, văn chương ở hải ngoại đă nảy mầm từ những tâm tư thương nhà nhớ nước của người Việt tị nạn sau một cuộc đổi đời. Cao Tần là một nhà thơ xuất hiện sớm nhất và cũng là một nhà thơ nổi bật nhất trong thời kỳ ấy. Vốn là một nhà văn đă thành danh ở Việt Nam và cũng là một kư giả có lối viết phiếm luận sắc bén, thơ Cao Tần đă được để ư từ những bài thơ đầu tiên.

Năm 1977, gần hai năm sau ngày 30 tháng tư năm 1975, trên tờ báo Bút Lửa có đăng mấy bài thơ của một thi sĩ danh tánh lạ hoắc kư tên Cao Tần. Những bài thơ ấy mới xuất hiện đă nổi bật ngay và gây một hiện tượng xôn xao cho độc giả. Nhiều người liên tưởng tới như những bài thơ của T.T Kh. đă tạo thành một nghi vấn cho văn học Việt Nam mà c̣n mù mờ chưa rơ ràng .Quả thực những bài thơ trên Bút Lửa ấy đă gây kinh ngạc cho độc giả. Măi về sau này, mới biết Cao Tần là bút danh của nhà văn Lê Tất Điều hay nhà báo Kiều Phong, một người đă là một cây bút quen thuộc của hai mươi năm văn học miền Nam

Ông sinh ngày 2 tháng 8 năm 1942 tại Hà Đông. Di cư vào Nam năm 1954 và di tản sang Mỹ năm 1975. Trước khi di tản ông là một nhà giáo và cũng là một kư giả ở Sài G̣n. Đă xuất bản truyện dài Đêm Dài Một Đời đă đoạt giải thưởng của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, và các tập truyện ngắn Khởi Hành, Kẻ T́nh Nguyện, Quay Trong Gió Lốc, Phá Núi, Người Đi, Những Giọt Mực.

Lư do mà những bài thơ đầu tiên mang tên Cao Tần được chú ư thật là giản dị. Bởi tâm sự của Cao Tần khi làm thơ cũng là tâm trạng chung của những người Việt di tản lúc ấy. Với ngôn ngữ vừa bi hùng vừa tha thiết, diễn tả lại một t́nh trạng tâm lư của những người c̣n xa lạ với cuộc sống mới và tiếc nuối những tháng ngày của cuộc đời xưa cũ. Lúc ấy, một nền văn học lưu vong đang dần dần h́nh thành. Ở những ngoái nh́n quá khứ và băn khoăn từ những bước chân đi đến tương lai. Ai mà chẳng cùng chung suy tư và ở những câu thơ Cao Tần lại gợi lên từ tâm cảm yêu nước nhớ nhà và ngôn ngữ mẹ đẻ đă thành thân yêu vô cùng trong những ngày bắt đầu tạo dựng một cuộc sống mới ở xứ người..

Có lẽ hồi trước 1975, nhà văn Lê Tất Điều cũng không làm thơ và sau này khi loạt thơ Cao Tần chấm dứt ông cũng ngưng làm thơ. Tại sao ông chỉ làm thơ trong khoảng thời gian đó?

Có lẽ chỉ có một ḿnh tác gỉa mới có thể trả lời câu hỏi khó này. Trong một cuộc phỏng vấn của đài phát thanh Á Châu Tự Do RFA do Mặc Lâm thực hiện th́ ông giải thích

“Tự nhiên tôi không có cảm hứng viết truyện ngắn nữa. Thế rồi thơ nó lôi cuốn bởi v́ trong bài thơ công việc sáng tác nó ngắn hơn nó không đ̣i hỏi thời gian nhiều..”

Nhà văn Vơ Phiến có viết đại ư là Cao Tần làm thơ như người kể chuyện và đó chính là một yếu tố để thơ ông gần gũi với cuộc sống hơn và tạo sự chú ư của độc giả.

Trong bài đề tựa tập thơ Cao tần do nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành, nhà văn Vơ Phiến nói rằng thơ của Cao Tần kết cấu như truyện và là những truyện ly kỳ nữa nên gợi được sự ṭ ṃ muốn t́m hiểu của người đọc. Và ông nêu ra vài thí dụ bài thơ Kho tàng kể về chuyện của một anh chàng tị nạn Cù Lần..

Nội dung của bài thơ cũng chỉ là một anh chàng tị nạn lúc nào cũng kè kè bên ḿnh một cái túi không một phút nào rời xa. Bạn bè tưởng là anh chàng biển lận nên đè anh ta xuống để mở cái túi bí mật kia ra. Và cũng chẳng có ǵ ngoài một lạng vàng, chiếc khăn tay và những danh thiếp cũ. Nhưng là cả một kho tàng của một người di tản và nhắc lại người và cảnh đă xa. Vàng th́ nhắc đến người mẹ:

“.. miệng túi mở ra kho tàng rơi tung toé

một lạng vàng trong giấy gói đơn sơ

một đứa hét “vàng này thằng em bé

không mại đi mày tính để đem thờ

“Sư chúng mày, vàng đem theo bốn cục

ông bán ba, bắt gọn mấy trăm đô

c̣n cục này tàn đời ông cóc bán

lúc lên đường bà cụ dúi tay cho”

C̣n khăn tay th́ nhắc đến người vợ bây giờ đă xa cách ngàn trùng:

“ ..một chiếc khăn tay cũ x́ cũ xịt

mầu nâu già thêu mấy chữ xanh xanh

“ giẻ rách ǵ đây hở thằng chết tiệt

“ Khăn vợ tao trao ngày khoác áo nhà binh”

và những tấm danh thiếp, ôi những tấm giấy làm nhớ lại những tên đường những tên người đă vào xa xưa:

”đáy túi nhỏ th́ đầy danh thiếp cũ

những tên người tên tỉnh đă xa xưa

những ḍng vội ghi hẹn ḥ gặp gỡ

những đường quen không trở lại bao giờ

…Với danh thiếp những tên đường đă đổi

những số nhà chớp mắt đă tang thương

những chốn hẹn ngàn năm không trở lại

những tên đời tơi tả khắp quê hương.”

Đọc xong bài thơ này chúng ta thấy thế nào?

Phải nói là rất xúc động anh Trinh à! Nhưng có khi chỉ cảm thấy thôi chứ diễn tả ra cái hay thế nào th́ khó lắm. Phải có một lúc , đợi xúc cảm lắng xuống th́ dễ dàng để thất bài thơ này độc đáo ra sao..

Chúng tôi cũng như những độc giả khác, chỉ cảm thấy rung động thôi và cũng phải loay hoay suy nghĩ để may ra có thể t́m được những điều mà ḿnh cho là tâm đắc và tuyệt diệu. Bài thơ sống động quá với những ngôn ngữ đời thường mô tả những cuộc đối thoại chuyên chở được ư t́nh mà tác giả muốn đề cập đến. Có một chút diễu cợt nhưng chỉ là cảm giác thoáng qua để thay vào đó là sự thương camû. Chỉ một túi nhỏ tầm thường của người di tản vỏn vẹn có thế mà sao lại coi như một kho tàng vô gia được ? . Bởi v́ những vật thể này không c̣n đơn thuần là vật thể nữa mà nó chứa đựng cả một trời quê hương và nhắc lại những người thân đă xa và những nơi chốn đă khuất biệt. Câu chuyện kể bằng thơ chỉ giản dị như thế nhưng lại gây ra sự xúc động đến vô bờ cho người đọc. Bởi nó đánh động đến tâm sự chung nên đầy ắp những chia sẻ…

Một bài thơ khác mà nhà văn Vơ Phiến nhắc đến như một bằng chứng đơn cử cho lập luận của ḿnh. Như bài” Ta làm ǵ cho hết nửa đời sau”.H́nh như đă có nhiều người lưu vong thốt lên lời nói đó mỗi khi bị ray rứt v́ chuyện nước chuyện non..

“Dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn

gánh sơn hà toan chất thử lên vai

chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn

dọn tinh thần cưa nhẹ đỡ vài chai..”

như trong một cơn đồng thiếp, một chàng hào hùng;

“một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn

nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn

nay đất khách léo lê đời rất nản

ta tính sẽ về vượt suối trèo non

sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động

những hùm thiêng cựa móng thét rung trời

và sông núi sẽ vươn ḿnh trỗi dậy

và cờ bay trên đất nước xinh tươi..”

Và một chàng khác,th́ lại muốn làm tượng thần tự do hỏa thiêu thân xác chính ḿnh để làm đuốc soi đường cho những oan hồn bị trầm luân trong đáy nước bao la:

”Một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối

thần tự do giờ đứng ở nơi nào?

Ta muốn đến leo lên làm đuốc mới

Tự đốt ḿnh cho lửa sáng xem sao

Thần tự do giơ hoài cây đuốc lạnh

Ta tiếc ǵ năm chục kư xương da

Sẽ làm đuốc soi t́m trong đáy biển

những oan hồn ai bỏ giữa bao la”

Và kết cuộc, chỉ là một cơn say, một tỉnh dậy giữa nỗi buồn của những người thấy ḿnh

bất lực giữa thế thời, mộng ước lớn mà bàn tay th́ qúa nhỏ:

”..sàn gác trọ những tâm hồn băo nổi

Những hào hùng uất hận gối lên nhau

Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nh́n nắng mới

Ta làm ǵ cho hết nửa đời sau.”

Thật là cảm khái. Thật là cay đắng với những nỗi niềm của những kẻ sinh bất phùng thời lớn lên và trưởng thành trong những nghiệt ngă của đất nước chiến tranh. Thực trạng sao buồn quá! Câu hỏi như một tiếng than…Ta làm ǵ cho hết nửa đời sau?…Những thân phận lưu vong. Những nỗi niềm nhược tiểu.

Mỗi người tị nạn đều mang theo những kỷ niệm trong kư ức. Có những người vẫn c̣n vương vấn đến tận bây giờ. Có những buồn phiền . có những ray rứt. Nhà thơ Cao Tần có bài thơ nào diễn tả tâm trạng ấy trong nhiều bài thơ. Chúng ta thử đọc bài thơ Chốn Tạm Dung xem. Bản thân tôi đă sống ở đây ba chục năm, thế mà có lúc cũng có những nỗi niềm trống vắng như thế.Thơ nói lên tâm cảm của những người nhiều khi thấy ḿnh bơ vơ giữa cuộc sống và kỷ niệm của nơi chốn xưa của đời sống cũ vẫn cứ bàng bạc hiện hữu:

“nhà tôi ở tọng teng đỉnh đồi

buổi mai đi làm thấy đời xuống dốc

sau lưng sương ngập cao lưng trời

trước mặt thông sầu reo đáy vực

bắt đầu ngày bằng một chút vui

hát nghêu ngao trong ḷng xe rỗng tuếch

bài ca quen bỗng chợt quên lời

chút kỷ niệm c̣m lại mất khơi khơi

tiếng Việt trong ta ngày bỗng héo

hồn Việt trong ta ngày mỗi khô

dốc mở như đời ta trước mặt

sương kín như đời ta năm xưa..”

Một ngày qua một ngày. Ra đi khi lúc vừa mờ sáng và trở về khi phố đă lên đèn, khúc ca sầu xứ măi măi ám ảnh. Trải qua bao nhiêu cuộc đổi dời. Bao nhiêu là nỗi muộn phiền . bao nhiêu là ray rứt. Người tị nạn có một mẫu số chung, của khởi hành đi vào cuộc đời mới với tất cả năng lực của ḿnh nhưng vẫn canh cánh bên ḷng nhớ mong về quê hương đất nước:

“chiều về lên dốc thân tơi tả

một quả hoàng hôn phủ kín trời

ḿnh mới ngoi lên ngày đă ngả

đêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi

giữa đỉnh sương mù thông đáy vực

ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn

c̣ng lưng gánh nốt đời lưu lạc

nặng trĩu ngh́n cân nhớ nước non.”

Cái độc đáo của thơ Cao Tần là dùng những ngôn từ thật sống động , những ngôn ngữ tạo nhiều h́nh ảnh như: kỷ niệm c̣m“, như “quả hoàng hôn”, như “mất khơi khơi”. Xử dụng những ngôn từ ấy thành thơ chinh là một dụng công để thi ca có máu huyết xương thịt của đời sống thực, của suy nghĩ thực…

Người tị nạn tuy hôi nhập vào ḍng chính nhưng vẫn c̣n ám ảnh bởi quê hương cũ của đất nước xưa. Có một lúc nào thơ Cao Tần biểu lộ tâm cảm ấy .

Đọc bài thơ Cảm Khái chúng ta nhận ra ngay lập tức.Tấm thẻ căn cước , tờ chứng chỉ tại ngũ nhắc lại một thời xa xưa.Một cách hóm hỉnh pha lẫn đau xót,tác gỉa nhận thấy h́nh như những tấm h́nh trên căn cước đều lam nhem xấu xí , không biết có phải là số phận tiền định xui khiến như vậy:

“h́nh căn cước anh nào mà chẳng xấu

tên chụp h́nh như một lăo tiên tri

triệu mặt ngây ngô bàng hoàng xớn xác

cùng đến một ngày găy đổ phân ly

nh́n h́nh chim in trên tờ chứng chỉ

chợt nhớ câu thơ Găy cánh đại bàng

ngàn lẫm liệt tan trong chiều ră ngũ

muôn anh hùng phút chốc hóa tang thương..”

và những câu cảm khái mà chúng ta trong những ngày lưu lạc thường hay thấm thía:

“Hỡi kẻ trong h́nh mặt xanh mày xám

người sắp thành tên mọi Mỹ rồi ư

hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm

mày lang thang đất lạ đến bao giờ

Oâi trong ví mỗi người dân mất nước

C̣n một oan hồn mặt mũi ngu ngơ

Oâi trong trí mỗi anh hùng thuở trước

C̣n dậy trời lên những buổi tung cờ.”

Có người nhận xét rằng mỗi bài thơ của Cao Tần đều mang theo một thông điệp gửi gấm cho người cùng cảnh ngộ và gửi trả lại quê hương. Trong hai mươi bài của tập Thơ Cao Tần, h́nh như hầu hết các bài đều diễn tả được một tâm sự đặc thù của người bỏ xứ ra đi.

Thư Quê Hương là “Gửi cho anh viên sỏi nhỏ bên đường

Anh sẽ đọc ra trăm ngh́n lối cũ

Gửi cho anh vài nhánh cỏ quê hương

anh sẽ đọc đất trời ta đă thở..”

Chuyện Thần Tiên là:” Ta muốn điều chi cuối đời lưu lạc

Này bà tiên vừa hỏi giấc mơ ta

‘”hăy đem hết những đổi đời tan tác

gói giùm vào cơn mộng dữ đêm qua”

Chiều Bát Phố la ”Chỉ gặp toàn Tây một chiều bát phố

Tiếc sao xưa cả nước chẳng quen nhau

Quen cả nước? Ra đường chào gẫy cổ

Và chắc ǵ nay nghĩ lại không sầu

Nhưng quen cả nước chắc ḷng sẽ nhẹ

Khi đi có chào may bớt xót xa

Ơi xóm mưa ơi có khi nào đổi kiếp

Tôi về thành chim hót trước hiên nhà.”

Mai Mốt Anh Về là: ”nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa

Ông anh hùng ông cứu được quê hương

Ông sẽ mở ra ngàn ḷ cải tạo

Lùa cả nước vào học tập yêu thương

Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp

Phản động ǵ cũng chỉ sống trăm năm

Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy

Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng”

Và c̣n nhiều bài thơ khác với những ư tưởng khác, thông điệp khác. Giở từng trang thơ, để thấy những ngôn ngữ linh hoạt, những chữ lóng, những ngôn từ dân giă, tất cả làm nổi bật một phong vị có lúc như diễu cợt, có lúc như ngông nghênh, mà có lúc là t́nh cảnh “ở ngoài cười nụ ở trong khóc thầm”. Người tị nạn đă trải qua những đoạn đời, đă qua nhiều nghịch cảnh, sẽ thấy thấm thía biết bao nhiêu với tâm cảm người thơ. Nếu nói thơ Cao Tần là biểu hiện sống động một thời kỳ của người Việt di tản đầu tiên th́ cũng chưa đầy đủ mà phải nói rằng thơ Cao Tần đă làm hồi sinh lại một thời đại văn học lưu vong ở hải ngoại.