thơ Hoàng Lc

Trn Doăn Nho

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

( Tháng 10 – 1999, ở “phố học” Boston, MA - với sự bảo trợ của nhà thơ Phan Xuân Sinh và phu nhân, ĐÊM THƠ T̀NH HOÀNG LỘC được tổ chức, với sự tham dự của gần 200 bạn văn và đồng hương.


Trong t́nh thân, nhà văn Trần Hoài Thư giới thiệu tác giả, nhà văn Trần Doăn Nho nói về tập thơ Qua Mấy Trời Sương Mưa và nhà thơ Trần Trung Đạo dẫn dắt chương tŕnh.


Tôi chép lại bài nói của Trần Doăn Nho trong đêm đáng nhớ ấy. Sau đó bài nói này đă in lại trong tạp chí Thế Kỷ 21 , California, Hoa Kỳ. )

HL


Tôi đọc thơ Hoàng Lộc từ những năm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 trên một số tạp chí văn học hàng đầu ở Sài G̣n như Văn, Bách Khoa, Khởi Hành…Thời gian đó, nói không ngoa lắm, là thịnh thời của những nhà văn, nhà thơ đất Quảng. Nhiều tên tuổi nổi bật trên văn đàn như Thái Tú Hạp, Nguyễn Nho Sa Mạc, Luân Hoán, Đinh Trầm Ca, Hà Nguyên Thạch, Huy Tưởng, Thành Tôn, Nguyễn Nho Nhượng bên cạnh tên tuổi của những nhà văn, nhà thơ khác ở nhiều vùng khác nhau như Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Nguyễn Bắc Sơn, Lâm Chương, Lê Bá Lăng, Lương Thái Sĩ, Mường Mán, Cao Thoại Châu, Chinh Yên, Trần Dzạ Lữ…Tất cả đều là những khuôn mặt mới toanh trên văn đàn miền Nam. Họ là những người thuộc thế hệ trẻ lớn lên trong không khí văn học khá tự do đang trên quá tŕnh dân chủ hóa. Hầu hết trong số họ là những người lính, đang cầm súng hay cầm bút. Tuy trong t́nh trạng chiến tranh, trong tư thế phải chọn một lập trường chính trị, nhưng các tác phẩm của họ thường không mang màu sắc chính trị. Họ vẫn chiến đấu như những người lính và vẫn viết văn, làm thơ như những con người. Họ vào trận mạc trong lúc vẫn suy tư về cuộc đời , về sự nghiệp và về chiến tranh theo trái tim riêng của họ đồng thời thể hiện chúng qua những bài thơ và gịng văn. Chính v́ thế, mà cuối cùng, tuy chiến bại, những tác phẩm của họ vẫn góp phần tạo nên một nền văn học thực sự cho miền Nam cũng như cho đất nước.

Nói riêng về thơ, mỗi người trong số họ có một phong cách riêng, có một cách nh́n ngắm cuộc đời và cách đưa vào văn chương riêng, nhưng vô h́nh chung, họ cùng nhau tạo nên một giọng thơ khá riêng biệt trong nền văn học, nhất là thơ t́nh. Gịng thơ đó không quá mới mẻ, đôi khi bí hiểm hay đầy chất trí tuệ như xu hướng của một số nhà thơ tự do, không cổ điển như kiểu Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, và cũng không đến nỗi "tiền chiến', sáo ṃn như kiểu thịnh thời Thơ Mới. Có thể nói, thơ của họ phảng phất chút thơ tự do, chút thơ cổ điển, chút tiền chiến.


Chúng ta hăy đọc thử một số đoạn thơ trích từ một số bài thơ của nhiều người khác nhau trong số họ:

Chiều cuối năm, ngồi trên tầng phố cũ
Trời quê hương nhiều mây trắng sa mù
Hai mươi tuổi những ngày nuôi mộng đỏ
Đă xanh rồi cây trái mọc suy tư
(Nguyễn Nho Sa Mạc)

 

Có bao giờ thích tiễn đưa ai
Đưa tiễn vốn chỉ hay nhàm chán
Đời trăm năm mập mờ như bóng nắng
Đưa một người làm trống phía sau lưng
(Cao Thoại Châu)



Em đừng hỏi ở rừng có chi lạ
Có ǵ đâu bia mộ dựng trong hồn
Bạn bè ta ưu tư ngủ gục
Với rừng già rách nát thương tâm
(Trần Dzạ Lữ)

Núi mờ, những sợi mưa bay
Nghiêng nghiêng mái cũ, lạnh đầy hồn không
Bước theo những giọt vô cùng
Mưa. Mưa. Hạt lệ mù trong đất trời
(Hồ Ngạc Ngữ)

Hăy tưởng tượng mỗi lần nói đến Huế
Về những căn nhà ma
Ngơ vào hai bên là hai hàng cây kiểng
Tường những rêu phong
Đẹp như tranh tĩnh vật
Đời như cỏ cây
Đời sống mịn màng
(Sương Biên Thuỳ)

Hồn ta đă mấy lần mây trắng
Phảng phất đời em tắm bến xưa
Hồn ta có một thời phiêu lăng
Trú thân buồn vương ngọn lưa thưa
(Từ Hoài Tấn)

Những sớm mai, những sớm mai hồng
Bên đồi tây, anh nhớ đồi đông
Nhớ đôi mắt biếc màu thu ướt
Nhớ tóc đuôi gà em trước sân
( Hoàng Đ́nh Huy Quan)

Dường như đứa trẻ ngh́n năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
Khi về râu tóc c̣n nguyên vẹn
Một ngày loáng thoáng một ngày qua

(Nguyễn Bắc Sơn)

Có phải em Sài G̣n
Kiêu sa và hoa lệ
Hồn nhiên và tươi trẻ
Chưa biết ǵ chiến tranh
Chiến tranh th́ mặc, em đừng sợ
Tṛ chơi cầm súng vẫn c̣n dài
Cứ liếc nh́n anh rồi cắn miệng
Hay cúi đầu như thể hổ ngươi
(Trần Hoài Thư)

Từ em đi những tháng ngày xa lạ
Những tháng ngày máu đỏ chẳng về tim
Tôi vẫn đứng trong khu vườn thương nhớ
Nghe mưa bay hiu hắt lạnh trong hồn
(Lâm Chương)

Tứ thơ, không khí thơ phảng phất cũ, phảng phất mới. Ư thơdung dị, chơn chất. Hiện thực đời thường tan ḥa trong những suy gẫm nhân sinh và những rung động tinh tế của trái tim trước cuộc sống, tạo nên những h́nh ảnh khiến ta bâng khuâng, buồn buồn. Chúng mang lại một chút ǵ dịu nhẹ, êm đềm nhưng thấm thía. Gịng thơ này, qua nhiều biến động long trời lỡ đất của đất nước, vẫn c̣n tồn tại ở lớp người làm thơ đó và truyền lại sức sống cho những thế hệ làm thơ sau. Nó vẫn c̣n ảnh hưởng khá mạnh mẽ trên văn đàn hải ngoại - và một phần nào đó, cả ở trong nước.

Hoàng Lộc làm thơ trong không khí đó, trong gịng thơ đó. Anh đă đeo đẳng nó, ôm ấp nó từ thuở đầu làm thơ cho tới bây giờ. Anh viết hoài viết măi như thể anh vẫn chưa nói hết những điều anh muốn nói. Những bài thơ trong tập "Qua mấy trời sương mưa" (QMTSM) in theo thứ tự thời gian. Đó là những bài thơ chắc lọc trong ba mươi năm làm thơ, trải qua bao nhiêu thăng trầm của số phận một đời người.

"Thơ trải dài qua ba thập niên, mà thi tập như một khối nhất quán, như tác giả vừa chụp lấy bút viết một mạch trong một đêm" (Văn Học).
Bài thơ đầu tiên đề năm 1969 và bài thơ cuối đề năm 1999. Tuy đề cập tới nhiều chủ đề khác nhau, QMTSM rơ ràng vẫn là một tập thơ t́nh. Hầu hết các bài thơ đều nói lên những bâng khuâng, e ấp, những day dứt, những sầu, những nhớ, những giận hờn, tiếc nuối, những rung động về t́nh yêu. Anh làm thơ t́nh trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả trong hoàn cảnh thân tàn ma dại của một tù nhân, của một người lính thất trận hay trong thân phận lưu lạc xứ người.

Cái t́nh đeo đẳng lấy anh như một loại "sinh tử phù".


Một đoạn thơ làm năm 1972:

Khi anh về bất ngờ anh biết khóc
Qua hiên nhà người bé vào lớp học
Bé đâu hay thành phố đă lên sương
Là khi anh cúi xuống một đời buồn

Năm 1987, khi ở tù về:

Em có bàn tay dịu dàng mấy ngón
Có ngón nào của cô bé ngày xưa
Chỉ một lần vuốt nhẹ trái tim thơ
Mà vết xước đủ một đời máu ứa

Khi ở Hoa Kỳ:

Em phía hoàng hôn, anh b́nh minh
Hai b́a trái đất gió chênh vênh
Một sao lấp lánh đôi bờ lệ
Từng sớm hôm soi một chữ t́nh

Chúng ta vừa đọc qua ba đoạn thơ của Hoàng Lộc qua ba chặng đời khác nhau: một Hoàng Lộc trẻ, một Hoàng Lộc ở tù về và một Hoàng Lộc lưu lạc. Ư th́ có khác, dĩ nhiên. Nhưng tứ thơ, không khí thơ và trái tim nhà thơ th́ dường như vẫn thế: yêu. Chan chứa yêu, đằm thắm yêu, say sưa yêu. Yêu không biết mệt mỏi. Ta có thể nói, anh bày ra "cuộc yêu" trong đời của anh và trong thơ của anh. Ở hoàn cảnh nào, Hoàng Lộc cũng có thể làm thơ t́nh một cách hồn nhiên, một cách b́nh thường, y như thể thế giới này không có ǵ khác hơn ngoài t́nh yêu trai gái, bởi v́ suốt đời anh là một "đời t́nh":


Ta măi lơ mơ suốt một đời t́nh
Măi lưu lạc những hiên nhà gái đẹp (tr 88)

Tôi không rơ nhà thơ đa t́nh Hoàng Lộc đă trải qua bao nhiêu hiên nhà gái đẹp, nghĩa là trải qua bao nhiêu lần yêu và thất t́nh và yêu và thất t́nh - nhưng rơ ràng là t́nh anh bao giờ cũng nóng hôi hổi. Yêu một lần nóng đă đành, yêu lần hai lần ba lần bốn cũng cứ nóng. Nóng, và da diết.

Bài thơ đầu trong tập:

Mịt mù cơi thế
Ngơ ngẩn đường chim
Công hầu coi nhẹ
Nhớ màu mắt em (tr. 10)

Bài thơ cuối tập:

Đă yêu ở Hội An
T́nh đă ra cửa Đợi (198)

Lúc chừng hăm mấy:

Trải cho em cả tấm ḷng
Mất toi đến cái khốn cùng của ta

Lúc chừng năm mươi mấy:

Để biết yêu em từ thuở ấy
Đời ta rồi nỗi khổ vô lường
Biết, ta biết trước mà hay vậy
Không có em càng sợ khổ hơn (129)

Bởi chỉ v́ em
Ta dính dáng với đời này (145)

Trong những ngày thua trận:

Đă vắng đầu lâu treo cổ ngựa
Mất em, cũng ư lạnh sa trường
Khi về t́nh ră theo tay mỏi
Nh́n bóng tàn quân rủ khói sương (tr. 37)

Lúc ở tù về:

Về, ta gặp phố sầu u
Ta yêu em với ta tù tội đây (49)

Như thế, cũng như nhiều nhà thơ khác, t́nh yêu của anh không hề có tuổi. Có lẽ v́ người yêu (hay nhiều người yêu) của HL dường như không có tuổi. "Em" có thể lớn lên, khác đi, nhưng không già. Em bao giờ cũng thế, lăng đăng nhưng mặn ṃi. "Em"(cũng như "cá thể hóa" như Hoàng thị Ngọ của Phạm Thiên Thư, Tố của Vũ Hoàng Chương) là một h́nh tượng vĩnh cửu. "Ta" hay "anh" cũng thế. "Em" hay "ta" hay "anh" được đẩy lên thành một mẫu, một dáng, một nét, một tính cách. "Em" là một cái khác của "ta", của "anh". Bắt chước lối nói của Mai Thảo, ta có thể cho rằng "em" trong thơ HL là một hoài hoài t́m kiếm, một hoài hoài đuổi bắt, một hoài hoài lạc nhau và một hoài hoài tiếc nuối.

Bởi thế mà t́nh của HL dường như lúc nào cũng là một thứ t́nh lỡ, t́nh trễ, t́nh mất, t́nh phụ. Anh viết:


Muôn năm, anh là người đến trễ

Chỉ v́:

Ta kiếm quẩn quanh trời cố xứ
Hồng nhan, hồng nhan - ta chiêm bao (28)

T́nh anh, rốt cuộc, bao giờ cũng quạnh vắng, hiu hắt:

Em hăy đốt lên giùm anh ngọn lửa
Thử ngọn t́nh hiu hắt tới bao lâu (108)

Cho nên, cuối cùng:

Yêu vô vàn cũng rớt giọt t́nh không (19)

T́nh yêu đó là "ngọn t́nh", "giọt t́nh". Ngọn hay giọt là một cái ǵ mong manh, chập chờn, thoáng chốc. Tất cả chỉ v́ người t́nh của anh luôn luôn trốn chạy, luôn luôn có đó và không đó, luôn luôn không bao giờ bắt được, luôn luôn thoát khỏi anh:


Mưa ngày xưa bây giờ chưa biết
Buồn đời ta, không đời ai bằng
Ngày xưa, ôi cái ngày xa lắc
Mà em đi chẳng nói chẳng rằng (54)

Đă tới ngày em bỏ quên ta
Che tay kỷ niệm ngó mơ hồ
Nắng gió trong ḷng em bất chợt
Em vừa giết một đứa làm thơ (32)

Không những chỉ thế. Thử nghe HL tâm sự trong những gịng
khác:

Những sớm qua cầu, ta gọi bớt hơi sương
Những trưa khô che dùm tóc mỏi
Con đường quen bụi lầy cố xứ
Em về, ta lặng lẽ mưa bay (145)

Áo trắng em qua trời phố nhỏ
Khi ḷng ta c̣n muốn làm mây
Dẫu nhiều năm cùn ṃn vó ngựa
Vẫn hí tương tư những tiếng đầy (126)

Vậy th́ đă rơ, đâu phải chỉ ḿnh em trốn khỏi tôi, mà ta cũng trốn khỏi em. Nói đúng hơn, anh và người t́nh của anh luôn luôn trốn khỏi nhau.Trên sân khấu cuộc đời, h́nh như họ luôn luôn đánh mất nhau. Và có thể v́ vậy mà họ yêu nhau, cần phải yêu nhau. Hay nói một cách khác nữa, t́nh yêu vốn ở chỗ hoài hoài thất bại:


Về, ta sững cuộc đổi đời
Đổi đời ta nhỏ hơn đời đổi em
C̣n nhau đâu mà trông t́m
Mất nhau từ thuở chưa ch́m nổi kia (50)

***

T́nh của Hoàng Lộc c̣n dính dáng đến rượu. Có lẽ ít tập thơ t́nh nào có nhiều rượu như tập thơ t́nh HL. Tôi hơi ṭ ṃ: toàn tập thơ có 12 bài có tựa đề mang từ "rượu". Và ít nhất 12 bài khác có "hơi rượu". Tất nhiên, hầu hết là "rượu t́nh" (hay là t́nh rượu?). Theo tôi, nhưng bài thơ có hơi rượu nằm trong số những bài hay nhất trong tập thơ của Hoàng Lộc. T́nh nhiều. Mà rượu cũng lắm!

Đối với người đông phương, rượu mang nhiều ư nghĩa. Và do đó, nó đă đi vào văn chương từ ngàn xưa:


Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mă thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

Và nay:
Chén tiễn chén đưa
Cho ră rời một đêm hẹn ước
Xếp áo t́m vui nơi chiến trường có bạn có thù (Trầm Tử Thiêng)

Rượu, hay chén rượu đă thành tập tục, hơn thế nữa, một nghi lễ, một sinh hoạt khá thiết thân: rượu khi vui, rượu khi buồn, rượu dành lúc tiễn đưa, rượu mừng ngày hội ngộ. Nhiều khi chén rượu được rút gọn thành chén: chén quan hà, chén ly bôi, chén hoàng hoa, chén tiễn chén đưa, đánh chén. Rượu giúp con người hưng phấn, quên buồn và đa t́nh như HL. Rượu của HL dính với t́nh, quanh quẩn với t́nh. Anh uống khi chia xa, lúc gặp gỡ, khi tiếc nuối, lúc buồn phiền, khi thất chí. Anh uống một ḿnh hoặc với bạn hoặc với người yêu. Nhiều lúc anh uống tưởng tượng và say tưởng tượng.Ta chẳng biết anh uống rượu hay uống t́nh, anh say rượu hay say t́nh. Tôi ṭ ṃ t́m xem cái loại rượu của anh HL là loại ǵ và cách anh uống như thế nào. Này nhé, trong HL, ta có: rượu hồng nhan, rượu hoàng hoa, rượu tàn đông, rượu tống mùa thu, rượu buồn, rượu đắng, rượu nồng, rượu thất t́nh, rượu chiều, rượu tàn niên, rượu khốn cùng, rượu điêu tàn - và có lẽ c̣n nữa, nhưng tôi t́m chưa hết.


Vài đoạn thơ có rượu:

Đời nhỏ tưởng chừng dăm hớp rượu
Ai hay sầu chật một hồn đời
Ta kiếm quẩn quanh trời cố xứ
Hồng nhan, hồng nhan, ta chiêm bao (28)

Mặc những lần xuân tuyệt mù trước ngơ
Mặc những loài chim không hề hót nữa
Rót rượu buồn đi - hồng nhan, hồng nhan
Anh uống giùm cô chỗ rượu điêu tàn(100)

Bữa rượu chiều ta,em ở đâu?
Mang mang lưng chén cái thương sầu (130)

Giá có em cùng chia chút rượu
Dễ khi gió đă lặng bên trời (151)

***

Hoàng Lộc yêu, Hoàng Lộc thất t́nh, Hoàng Lộc uống rượu. Yêu đủ cách mà uống rượu cũng đủ cách. Đa đoan quá chăng? Nát rượu quá chăng? Không ! Bên dưới những t́nh, những rượu đóchứa đựng một cái ǵ khác. Những bài thơ của Hoàng Lộc, rốtlại, y như một tiếng thở dài sâu lắng của cuộc tồn sinh. T́nh của anh, như anh có lần bảo, đâu chỉ là t́nh, mà c̣n là một "nhịp thở trần ai":

Chia cho nhau từng nhịp thở trần ai.

Những cô em mười sáu tuổi hay những cô em "đổi đời" không có tuổi, những mối t́nh thấp thoáng hay mặn nồng, những gặp gỡ và dang dở t́nh cờ hay những chén rượu t́nh nồng chỉ là h́nh ảnh hiện thân cho nỗi bất an, khắc khoải trước những đổi thay liên tục , trước định mệnh, trước những phù phiếm, hư huyển của thời gian, của cuộc lữ. Chả thế, mà nhiều lần Hoàng Lộc nhắc đến chữ "biển dâu" trong thơ. Đời biển dâu mà t́nh cũng biển dâu :

Lúc anh về bé vừa lên mười sáu
Rất dịu dàng nhưng rất lạ đời anh
Khi đưa tay gơ vội trái tim ḿnh
Nghe sai lỡ như một lần dâu bể (19)

Gió bên đời bỏ mặc lá thu bay
Rồi nếu cần em sẽ biển dâu ngay

T́nh và rượu chứa đựng cái mất, cái c̣n:

Dễ những nương dâu bảo dừng biển lại
Mà cái mất cứ xui ḷng khổ măi (101)

Giá có em ngồi, ta kể lại
Mỗi biển xanh từng hóa ruộng dâu (151)

Cũng là dâu biển, nhưng trong một bài thơ khác, anh nói đến cuộc thăng trầm:

Rượu tàn niên chừ gió xa xăm
Gió chi thổi riết mấy mươi năm
Quán cô hồn một ta chớ mấy
Sợ - mà khinh - những cái thăng trầm (150)

Thăng trầm, biển dâu, đó là ám ảnh không nguôi chuyên chở trong những gịng thơ t́nh ngấm rượu của nhà thơ đất Quảng Hoàng Lộc, một "hào sĩ" như anh tự nhận trong một lần say khước ở Hội An, quê anh:

Nhớ em, nhớ buổi trăng tàn khuyết
Quán cuồng, hào sĩ cũng rưng rưng
Như ta, dễ một lần ta khóc
Em hát liêu trai khúc nguyệt cầm (29)



9/199