đàm thoi vi

nhà văn Trn Doăn Nho

 Lương Thư Trung 

 

   

 

 

 

 

 

 

Trần Doăn Nho

dưới nét vẽ của họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi

 

 

 

 

 

 

Lương Thư Trung (LTT):

Anh Trần Doăn Nho thân mến,

Nhớ lần đầu gặp anh cách nay 13 năm, nhơn tôi đi dự buổi ra mắt thi tập Thơ Tuyển của thi sĩ Tô Thùy Yên tổ chức tại Boston (Massachusetts), năm1998, lúc bấy giờ nhà văn Trần Hoài Thư giới thiệu anh, trước năm 1975 có viết trên tạp chí Văn ở Sài G̣n. Vậy xin anh có thể chia sẻ một chút là anh có bài đăng trên Văn từ lúc nào và ngoài tạp chí Văn, lúc bấy giờ anh c̣n cộng tác thêm với tạp chí văn học nào nữa không, thưa anh?

 

Trần Doăn Nho (TDN):

Mến chào anh Lương Thư Trung,

Bài đầu tiên đăng trên Văn là một bài thơ, vào  mùa hè năm 1967, trong một số chuyên  về thơ, đặc biệt giới thiệu nhà thơ Nga Eugène Evtouchenko. Truyện ngắn đầu tiên đăng trên Văn là vào đầu năm 1969 và sau đó thêm vài truyện nữa. Ngoài truyện, tôi cũng có viết tiểu luận văn chương và điểm sách cho Văn và Tân Văn (cũng do Trần Phong Giao chủ trương).Ngoài ra, tôi có truyện in trên Vấn Đề ( Mai Thảo chủ bút), Bách Khoa, tiểu luận và thơ  trên Khởi Hành (Viên Linh chủ bút) và  một số bài thơ và truyện trên Đối Diện.

 

LTT:

Thưa anh,

Tôi có đọc truyện ngắn Con mắt thủy tinh trên Văn số 132 ngày 15-6-1969 có chủ đề "Phượng trong thành nội" với nhân vật chính là Trang với đoạn văn mở đầu: "Khi lật đến bản nhạc "T́nh Khúc Thứ Nhất", Trang bổng đột ngột nhớ đến Quyền, cô nữ y tá Tổng-Y-Viện Cộng Hoà . Dáng cô bé nhỏ nhắn như  quá lỏng lẻo đàng sau cái "blouse" rộng thùng th́nh. Trang gọi đùa cô bé là con mèo. Cô bé cười, mắt nhấp nháy nửa muốn cười nửa  trông thật buồn…" ; để rồi anh kết sau hơn 12 trang báo in với những ḍng cuối quả là buồn: "Trang hoảng hốt. Chưa bao giờ Trang thấy khuôn mặt ḿnh quái đản như vậy. Đột nhiên, Trang có cảm tưởng nó không phải của ḿnh, nó xa lạ, kỳ dị. Trang hấp tấp gắn mảnh thủy tinh vào lỗ hổng con mắt, rồi đi nằm. Suốt đêm, Trang bị ám ảnh bởi khuôn mặt của ḿnh, không ngủ được."


Thưa anh, anh có c̣n nhớ anh viết truyện này trong hoàn cảnh nào không?

 

 

 

 

 

 

 

 

(VĂN số 132, ngày 15-6-1969 do nhà văn Trần Hoài Thư sưu tầm và Thư Quán Bản Thảo in lại, không bán, dành để tặng thân hữu)

 

TDN:

Thân gửi anh Trung,

Nhân vật trong truyện là một người ở chung pḥng trọ hồi tôi vào học ở Sài G̣n. Anh ấy là một thương binh, được giải ngũ. Trong hoàn cảnh chiến tranh vào thời kỳ cao điểm (1968,1969), trở thành thương binh, được giải ngũ và được lănh tiền lương hàng tháng, trong điều kiện toàn thân lành lặn, chỉ có mất một con mắt, anh ấy, theo tôi, là quá may mắn. Tuy nhiên, theo như lời anh ta tâm sự, anh không cảm thấy may mắn như tôi nghĩ. Đó là bối cảnh của câu truyện. Anh bạn này, sau khi đọc xong truyện, kết luận một câu (mà tôi c̣n nhớ măi): mấy nhà văn thường hay khai thác nỗi đau khổ của người khác để nổi tiếng!

 

LTT:

Thưa anh,

Là một tác giả viết văn lâu năm, anh nghĩ sao về lời kết luận của anh bạn này? Có phải nhà văn muốn khai thác nỗi đau của người khác hay chỉ v́ cảm thông với nỗi đau của người khác mà viết nên những ḍng chữ chan chứa nỗi đau?

 

TDN:

Anh LTT,
Anh hỏi, mà thực ra là anh đă trả lời thay cho người viết. "Nỗi đau" riêng của người khác, cũng như nỗi đau của chính ḿnh, nói cho cùng, đều là là chất liệu, là kinh nghiệm nhân sinh mà người viết cần có để chế biến thành tác phẩm. Sáng tác, hiểu theo một nghĩa nào đó,  là một nỗ lực biến nỗi đau riêng thành nỗi đau chung.

Nói cho cùng, nếu không có những nỗi đau, có lẽ cũng không có văn chương.

Tuy nhiên, riêng tôi, tôi cảm thông được tâm trạng của anh bạn chung pḥng. “Con mắt thủy tinh”, dù chỉ sử dụng một số chi tiết điển h́nh từ anh ấy, cũng chạm đến nỗi đau riêng của anh. Chạm đến nỗi đau riêng đôi khi tạo ra một nỗi đau khác.

 

LTT:

Thưa anh,

Như anh viết : "Chạm đến nỗi đau riêng đôi khi tạo ra một nỗi đau khác", anh làm tôi nhớ tới phần tiểu thuyết tâm lư với tiểu thuyết gia Marivaux (1688-1763) thuộc thế kỷ XVIII, qua hai tác phẩm La vie de MarianneLe Paysan parvenu,  mặc  dù ông không thoát được ảnh hưởng các tiểu thuyết gia thế kỷ trước, nhưng ông đă đưa ra được khía cạnh mới là đi sâu vào việc t́m hiểu tâm lư nhân vật với các khía cạnh phức tạp trong tâm t́nh của mỗi nhân vật ấy; tất cả nó có liên đới với nhau giống như khi người ta ném một ḥn đá xuống một hồ nước, gây nên những gợn nước làm thành vô số ṿng tṛn đồng tâm, và tâm lư nhân vật khi gặp một sự thể nào đó th́ nó cũng phản ứng liên tục vào tâm trạng của họ như vậy. Anh có thể nói thêm một chút về "những nỗi đau khác" ấy được không, thưa anh?

 

TDN:

Anh Trung,

Nỗi đau khác đây không phải ở nhân vật tiểu thuyết. Tôi đề cập đến tâm lư thông thường của người đời. Từa tựa như "khơi lại vết thương ḷng". Khơi lại một nỗi đau có thể không làm người ta đau lại cùng một nỗi đau, nhưng tạo nên một nỗi đau mới, "nỗi đau của nỗi đau". Cách hiểu của tôi có lẽ không khác lắm với hiệu ứng ṿng tṛn đồng tâm trên mặt nước khi có một vật thể chạm vào, của Marivaux.
Trở lại với trường hợp người bạn chung pḥng. Anh ta tên Trang và tôi đă sử dụng tên thật của anh trong truyện. Anh ta có hỏi tôi, giọng tỏ ra bực bội: Sao không dùng một tên khác mà lại dùng ngay tên tôi? Tôi đáp cho qua chuyện: tôi thích tên Trang. Thực ra, dùng ngay chính tên của  anh giúp tôi dễ tưởng tượng hơn. Nghĩa là tạo ra một liên hệ giữa nhân vật thực và nhân vật ảo. Đây là một kinh nghiệm riêng: khi sử dụng chất liệu của một ai đó ngoài đời, nếu ta dùng ngay tên người đó, tôi cảm thấy dễ viết hơn. Có lẽ do ta có một "cái ǵ đó" để bám víu trong khi đầu óc ḿnh đang phiêu diêu vào cơi hư cấu chăng?

 

LTT:

Thưa anh,

Đó là chuyện văn, bây giờ thử đề cập đến chuyện thơ. T́nh cờ tôi đọc được bài thơ “Lịch sửcủa anh trên tạp chí Đối Diện (1968) với hai đoạn cuối, anh viết:

……

nhưng lỡ tim em bị thủng
em hăy cố mở mắt ra nh́n ánh mặt trời
hay nh́n một v́ sao
hăy nhớ đến vài người thân yêu nhất
hăy nhớ nụ cười thần thánh của t́nh nhân
nếu c̣n sức th́ nhớ thêm vài thằng bạn
rồi nhắm mắt ngủ yên như cỏ như cây

em cứ yên trí đi
v́ những người c̣n lại sẽ ghi lên giấy
em là một anh hùng
một anh hùng vô danh trong những anh hùng vô danh
của lịch sử đó em”.

(Đối Diện, 1968)

Và một bài nữa, cũng trên Đối Diện cùng năm, “Những đứa con của Chúa” mà anh dùng ba câu mở đầu bài thơ làm ba câu kết bài thơ:

lạy Chúa, nếu quả thật có Chúa trên trần gian
xin Chúa hăy ban cho loài người một nụ cười
và đừng bao giờ thêm một lời phán xét

……..

lạy Chúa, nếu quả thật có Chúa trên trần gian
xin Chúa hăy ban cho loài người một nụ cười
và đừng bao giờ phán xét.

(Đối Diện, 1968)

 

Nhưng có lẽ bài thơ “Cuồng ngâm (kư tên Trần Hữu Thục) trên tạp chí Văn năm 1967, kỷ niệm Đệ Tứ Chu Niên xin ghi lại dưới đây; ở đó có chút ǵ khơi gợi lại lớp thanh niên trai trẻ nơi thành thị lúc bấy giờ luôn băn khoăn trăn trở về thân phận của chính họ giữa những mùa chinh chiến ngập tràn:



Cuồng ngâm

Có một lần ta nh́n sao rụng xuống
Ta ngỡ ngàng nghe thân thể vỡ tan
Ta cúi xuống và không t́m ra ta nữa
Không có ta không có ta cả đến ngh́n năm

Ôi lịch sử, ta đă là lịch sử
lịch sử trên tay ta lịch sử trên tóc ta
ngh́n năm sau và một ngh́n năm trước
có ta rồi và cũng chẳng có ta

cho ta làm tất cả những người đă chết
cho ta làm bóng tối cho ta làm cây xanh
cho ta chết để không bao giờ chết nữa
chỉ có ta một ḿnh chỉ có ta một ḿnh

cho đập vỡ muôn ngàn ngôi cổ mộ
đập vỡ đền đài đập vỡ cả trời mây
để ta nghe một ḿnh con dế mèn ca hát
một ḿnh con chim đập cánh tung bay

có một lần nh́n trời sao ta khóc
ta thẩn thờ đi t́m một khoảng không gian
một khoảng không gian không buồn không tủi
không đau thương không giận không hờn

cho ta đừng bao giờ c̣n bộ óc
đừng giận đừng vui đừng khóc đừng cười
cho ta ngủ yên dù ở một nơi nào trên mặt đất
ta ru cây cỏ ta ru loài người

đừng nhắc ta về một ḍng sông sầu thảm
đừng nhắc ta một lần lập quốc một thuở xâm lăng
đừng nhắc ta một lần thua một lần chiến thăng
ǵ là nhục nhă ǵ là oai hùng!

lịch sử ơi lịch sử buồn như bóng tối
nào có ǵ để bớt có ǵ để thêm
lịch sử ơi ta đă là lịch sử
lịch sử buồn ôi lịch sử không tim.

(VĂN, 1967)

H́nh b́a ngoài và mục lục tạp chí Văn số 97 do Trần Hoài Thư chụp 2/2011)

Vào những năm tháng ấy, dường như học sinh, sinh viên phần lớn đều có đọc cuốn “Ư Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học” của Phạm Công Thiện, cũng như quyển “Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng” của Krishnamurti do Phạm Công Thiện dịch mà nội dung cuốn sách thứ hai này bao gồm nhiều vấn đề liên quan đến kiến thức, nỗi cô đơn, nỗi đau khổ, về chiến tranh, về tín ngưỡng nơi Thượng Đế, về Thượng Đế, về t́nh yêu, về thời gian, về sự chết và nhiều lắm những chủ đề có liên quan đến con người cùng hoàn cảnh chung quanh vây bọc lấy con người… Xin anh vui ḷng cho hỏi thêm một chút là các bài thơ vừa trích của anh đuợc anh sáng tác trong hoàn cảnh nào?  Và anh có chịu ảnh hưởng  phần nào bởi các tác phẩm vừa nêu của Phạm Công Thiện, của Krishnamurti hoặc của các triết gia nào khác vào những năm 1960-1970 không, thưa anh?

 

 

 

 

 Tự do đầu tiên và cuối cùng của Krishnamurti, Phạm Công Thiện dịch, An Tiêm xuất bản lần thứ nhứt, Sài G̣n, năm 1968 (với trang đầu tôi ghi mua tại Long Xuyên  ngày 01-12-1968, tính ra cũng đă 43 năm rồi)

 

TDN:

Chắc chắn là có anh Trung à. Nhưng không phải chỉ Phạm Công Thiện hay Krishnamurti, mà của nhiều luồng tư tưởng khác nhau:  hiện sinh, thiền, phân tâm, tính dục…Không những đọc sách báo ở ngoài mà c̣n được học qua trong trường. Lúc đó, tôi đang học triết.

Nhưng tác động lớn nhất là hiện thực chiến tranh. Anh biết, năm 1967 là năm cao điểm của cuộc chiến Việt Nam với sự hiện diện của gần nửa triệu quân Mỹ. Nhiều và rất nhiều trận đánh ác liệt diễn ra trên khắp miền đất nước để rồi đầu năm 1968, chiến tranh diễn ra ngay ở thành phố với trận Mậu Thân. Suốt 26 ngày ở Huế đầu năm Mậu Thân, tôi sống trong và sống với chiến tranh. Bom đạn và chết chóc diễn ra ngay trước mắt, ở quanh nhà, trên đường phố…Nếu không may mắn, có lẽ tôi cũng đă trở thành nạn nhân chiến tranh. Tuy được hoăn dịch (học vấn) nhưng chung quanh tôi, bạn bè, bà con, hàng xóm láng giềng đều lần lượt đi vào quân đội. Cuộc tử sinh không c̣n là vấn nạn triết lư và là vấn nạn của đời sống. Nếu “Cuồng ngâm” chứa đựng một thứ tuyệt vọng siêu h́nh (và có vẻ làm dáng) th́ hai bài kia làm sau Mậu Thân, là tâm trạng thảng thốt thực sự. Mọi lạc quan về một đất nước ḥa b́nh gần như đổ vỡ. Không chỉ thơ mà hầu hết các truyện ngắn tôi viết trong thời gian này đâu đó trên các tạp chí đều phảng phất tâm trạng đó. Và không phải chỉ ḿnh tôi, mà hầu hết sáng tác của “những cây bút trẻ” (cụm từ mà tờ Văn gọi những người viết mới chúng tôi) đều như thế. Nhất là những cây bút vừa cầm súng vừa viết như Y Uyên, Trần Hoài Thư, Lê Bá Lăng, Lê Văn Thiện…Khác với tôi là dân thành phố nh́n chiến tranh với cái nh́n (y như) của một kẻ đứng ngoài, truyện của họ hừng hực khói lửa, đầy máu và nước mắt. Họ viết về hiện thực và chẳng cần bất cứ một triết lư nào, anh Trung ạ. Đọc lại thơ và truyện sáng tác thời đó (qua mấy tập thơ, văn miền Nam do Thư Ấn Quán tái bản gần đây), ta thấy rơ điều này.

Theo tôi, đó thực sự là một nền văn học chiến tranh với tất cả những hiện thực sống động của nó. Bi thảm nhưng tràn đầy nhân bản.  Hoàn toàn khác hẳn với nền văn học tuyên truyền của miền Bắc.

 

LTT:

Thưa anh Trần Doăn Nho,

Với nhà thơ Âu Thị Phục An, trong bài tṛ chuyện vừa qua trên Da Màu chị cho biết, chị có truyện đăng trên Văn lần đầu nhưng sau này chị lại làm thơ nhiều; c̣n anh th́ ngược lại, có thơ đăng lần đầu trên Văn nhưng sau này anh lại chuyên viết truyện. Theo anh, đây chỉ v́ sở thích hay cái nghiệp của mỗi người ?

 

TDN:

Nói “nghiệp” nghe nặng nề quá. Viết lách nói chung, theo tôi, chỉ là một cái thú, thú bịa chuyện. Viết văn th́ có nhiều điều để bịa hơn thơ. Thành thử, tôi thích viết văn hơn làm thơ. Nói thiệt với anh, tôi đă gửi năm, ba truyện ngắn cho Văn trước đó, nhưng không được chọn đăng. Không những ở Văn, tôi c̣n gửi cho vài ba tạp chí văn học khác như Văn Học hay Nghệ Thuật nhưng cũng đều bị từ chối. Chán nản quá, tôi gửi thử bài thơ. Và được chọn đăng. Một thời gian sau đó, ước ao của tôi mới được thỏa: truyện ngắn “Ngày tháng cằn” được đăng ở Văn số 121, kỷ niệm Đệ Ngũ Chu Niên. Cũng phải trải qua đôi chút “gian nan”, như tôi đă có dịp ghi lại trong “ Một chút Trần Phong Giao” trên Da Màu. Mà nghĩ cũng lạ, hồi đó, chỉ khi nào có bài được in ở Văn, th́ mới cảm thấy ḿnh là…nhà văn!  Nhân tiện, tôi cũng khoe với anh, trước khi có bài in ở Văn, tôi đă từng có một bài thơ (lục bát cua gái) được đăng ở… Phụ Nữ Diễn Đàn và hai truyện ngắn và vài bài thơ được đăng ở tạp chí Xây Dựng do Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Quốc Gia Vũng Tàu, vào khoảng những năm 1960,1961, với một bút hiệu nghe rất học tṛ: Hạnh Băng.

 

LTT:

Mà sao lại là “Hạnh Băng” thưa anh? Anh có c̣n nhớ bài thơ ấy không?

 

TDN:

Hạnh là một cô bé tên Hạnh. C̣n Băng là …Băng.

Bài thơ có 18 hay 20 câu có tựa đề là “Nhớ mong”, nói về một cô gái học lớp Đệ Lục(bây giờ là lớp 7), ngày nào cũng đạp xe đi học ngang qua nhà tôi (tôi học Đệ Tứ). Sáng nào, tôi cũng đứng ở góc vườn đợi nh́n cô đạp xe đi ngang trước khi đi học. Có lúc cũng đạp theo sau lưng cô, nhưng vừa đạp vừa run. Tôi c̣n nhớ bài thơ được đăng ở một góc nhỏ xíu, bên cạnh một ô quảng cáo dầu Nhị Thiên Đường chiếm gần cả trang. Lâu quá, tôi chỉ nhớ lỏm bỏm ít câu, xin ghi lại cho vui:

Em đi xe đạp ngang nhà
Góc vườn tôi đứng trông ra bồi hồi

Buổi chiều nh́n áng mây trôi
Nhớ em tôi viết mấy lời vu vơ

… Sáng nay không thấy em qua
Góc vuờn tôi đứng rất là nhớ mong ….

Trời ơi, mới đó mà 50 chục năm đă trôi qua rồi, anh Trung à.

 

LTT:

Kính chào anh Trần Doăn Nho,

Thời gian lúc nào cũng vậy, thưa anh, có dừng lại bao giờ! Mới đó mà cũng đă năm mươi năm rồi những “nhớ mong” ngày nào! Nhơn những ngày đầu năm âm lịch, anh có thể chia sẻ một chút về việc tác giả giải thích về tác phẩm của ḿnh, nó có mang một giá trị nào về mặt xác định tính chất hay hoặc dở của tác phẩm không, thưa anh?

 

TDN:

Mến chào anh Lương Thư Trung,

Như tôi có tŕnh bày trong bài viết về cái gọi là “tác giả” (chắc anh cũng đă đọc qua trên Da Màu hay ở Hợp Lưu, bài “Tác giả, cuộc thăng trầm”), một khi tác phẩm đă ra đời rồi, ư kiến của tác giả giải thích về tác phẩm của ḿnh cũng chỉ là ư kiến như bao ư kiến khác, không có một ưu tiên nào và không chắc đă đúng và có giá trị. Trước đây, ta thường cho rằng tác phẩm chính là tác giả,  hay nếu không th́ tác phẩm cũng mang nặng dấu ấn của tác giả. Hiểu được ư tác giả nói ǵ qua tác phẩm là xem như xong.  Thực ra, sau này, người ta cho rằng không chỉ có tác giả, mà độc giả cũng đóng một vai tṛ quan trọng trong việc h́nh thành ư nghĩa của tác phẩm. Ư nghĩa của tác phẩm là một liên kết tác giả-tác phẩm-độc giả. Ư nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm là một chuyện; ư nghĩa mà độc giả t́m ra khi đọc là một chuyện khác, có khi hoàn toàn khác. Chẳng lạ ǵ, có trường hợp, trong lúc tác giả tự cho rằng ḿnh đă mang hết tinh túy của đời sống trải ra trên trang giấy th́ độc giả lại không t́m thấy ǵ trên đó cả. Thậm chí, ngược lại. Dở và hay, theo tôi, không nằm trong thẩm quyền của tác giả.

 

LTT:

Thưa anh Trần Doăn Nho,

Như anh biết, khuynh hướng tả chân cổ điển diễn tả sự thật đúng như thật, nó luôn luôn chú trọng đến những phần xấu xa và hèn kém của con người.  Nhơn nhắc đến khuynh hướng tả chân, tôi c̣n nhớ dường như người ta cần nhận định rơ là nên tả chân đến giới hạn nào? Chú trọng đến hạng người nào trong xă hội và cần nói lên những điều ǵ và bỏ qua những điểm nào không nên nói; rồi hướng về đâu trong kết cấu câu truyện và cách giải quyết câu truyện như thế nào… Từ những phân chia ra các khác biệt như vậy mà khuynh hướng tả chân ngày xưa thường được phân chia ra cá thảy chín, hoặc mười loại khác nhau …

Dường như trong các tác phẩm của anh mà tôi đă đọc như “Vết xước đầu đời”,Căn pḥng thao thức” và truyện dài “Dặm trường”, chúng nặng về tả chân, mà nhất là tả chân theo khuynh hướng cổ điển vừa nêu. Anh nghĩ sao về nhận xét này, thưa anh?

 

TDN:

Thú thật với anh, khi viết là viết, chứ tôi không hề tự buộc ḿnh một khuynh hướng nào hết. Tuy nhiên, ám ảnh lớn nhất của tôi là phản ảnh được một phần nào đó diện mạo của hiện thực, của những ǵ ḿnh đă từng trải nghiệm trong cuộc sống. Th́ là tả chân đó thôi. Thú thật, tôi không rạch ṛi chọn cách tả chân nào trong số những loại mà anh đă đề cập. Khác với một số truyện ngắn, dù là tả chân, nhưng chỉ là những nét chấm phá, trong “Dặm trường”, tôi đẩy tả chân đến độ đậm đặc. Thay v́ khái quát hóa, tôi sự- kiện- hóa, chi tiết hóa hiện thực. Trong một lá thư gửi riêng, ông Vơ Phiến bảo là “Dặm trường” “chật ních” sự kiện.

Chọn cách viết này một phần nào là do cách nh́n của tôi về diện mạo của cái xă hội lạ lùng sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam. Theo tôi, đó là  xă hội của những sự kiện. Sự kiện tiếp nối sự kiện và bản thân con người cũng trở thành sự kiện. Nh́n quanh cuộc sống, ta chỉ thấy toàn là nhu cầu và những nhu cầu. Không có siêu h́nh, không triết lư, không lăng mạn… (Anh đọc lại một trích đoạn từ “Dặm trường” có tựa đề “Quen” đă đi trên Da Màu vào dịp 30/4/2010). Chỉ có con người và nhu cầu, con người và sự vật. Mọi người chấp nhận mọi thứ chỉ để được tồn tại. Giành giật, láo lường, phản bội. Mọi giá trị lộn tùng phèo. Những nhân vật trong “Dặm trường” sống trong một thế giới của sự kiện. Cách hay nhất là để cho sự kiện tự chúng nói lên ư nghĩa (facts speak for themselves).  Do đó, thay v́ đưa vào những cảm nghĩ và lư luận hay quan điểm (qua miệng của nhân vật hay ư nghĩ), tôi diễn tả sự kiện, dùng cử chỉ và những đối thoại thông thường. Nhân vật của tôi thường rất ít triêt lư  mà chỉ “hành động”. Thay v́ bày tỏ trực tiếp một thái độ, một nhận định, tôi đi ḷng ṿng quanh các sự kiện, mô tả chúng, vừa để dẫn người đọc ḥa nhập được vào t́nh huống và tự t́m ra một “điều ǵ đó” trong cái mớ bề bộn các sự kiện.

 

LTT:

Thưa anh TDN,

Về cái nét trong các nhân vật của anh, như trong bài viết “Thử đọc lại vài trang sách của Trần Doăn Nho”trên Da Màu, tôi có ghi nhận là nhân vật của anh dù nam hay nữ, dù hèn hay sang, họ có chung cái nét là khá thông minh. Thông minh trong ư tưởng, trong suy nghĩ, trong đối đáp và nhật là thông minh trong cách giải quyết những khúc quanh của cuộc đời. Họ không buông xuôi theo một định mệnh mang tính tắc trách nào. Họ lao vào đời và chấp nhận thân phận ḿnh bằng tất cả trách nhiệm của một người trong cuộc. Phải chăng đó là tính cách đáng trân quư của những nhân vật tiểu thuyết hay là của những con người có thật trong ḍng đời với biết bao biến thiên dâu bể một thời kỳ mà đất nước và con người bị xô đẩy vào con đường không c̣n một tia sáng le lói nào ! Xin anh chia sẻ thêm một chút về cách tạo nhân vật cùng tính cách của các nhân vật ấy trong các truyện của anh được không, thưa anh?

 

TDN:

Anh LTT mến,

Anh cho rằng các nhân vật của tôi “Thông minh trong ư tưởng, trong suy nghĩ, trong đối đáp và nhất là thông minh trong cách giải quyết những khúc quanh của cuộc đời. Họ không buông xuôi theo một định mệnh mang tính tắc trách nào. Họ lao vào đời và chấp nhận thân phận ḿnh bằng tất cả trách nhiệm của một người trong cuộc.”

Thực ra, nhân vật của tôi hầu hết đều là những nhân vật “lai”, anh Trung ạ. Tôi không hề có ư định tạo ra những nhân vật “chính diện” – hiểu như là cái ǵ đối nghịch với “phản diện”, với cái “không tà”. Nhân vật của tôi thường chênh vênh, tiêu cực, nửa chính nửa tà, luôn luôn tưởng ḿnh làm chủ được các hành động của ḿnh và các biến cố, trong lúc thực ra, họ bị cuộc sống lôi kéo đi… ngoài ư muốn. Đó là những con người thất bại, không những trong cuộc sống mà ngay trong chính ư định của ḿnh mà không biết, vẫn cứ tưởng ḿnh vẫn là ḿnh, thậm chí vẫn tưởng ḿnh ..thành công. Trong các hành động của họ và ngay trong tâm tưởng của họ, biên giới giữa cái đúng và cái sai rất nhập nḥe, mờ nhạt . Đó là ư tưởng chủ đạo khi xây dựng nên các nhân vật trong các truyện ngắn, và đặc biệt là nhân vật Hạnh trong “Dặm trường”.

 

LTT:

Thưa anh,

Về “tính dục” trong truyện anh là một hiển nhiên. Cũng như trong các trang sách của Lâm Chương, trong văn anh lác đác những cảnh mật thiết giữa hai nhân vật nam và nữ là một cái ǵ đó nếu mà thiếu nó th́ Trần Doăn Nho và Lâm Chương sẽ là hai nhà tu, không c̣n là hai nhà văn nữa rồi. Tôi thấy trong Dặm trường, cảnh hai nhân vật nam và nữ, họ gặp nhau sau những tháng ngày xa cách giữa cảnh rừng trầm mặc và những chiếc lá rụng thành một lớp dày rung chuyển dưới thân thể nóng bỏng của hai người đă làm cho Dặm trường mang đầy cái hương liệu tiểu thuyết của nó…

 

TDN:

Anh LTT thân mến,

Như anh nhận xét, yếu tố t́nh dục trong các sáng tác của tôi khá đậm.

T́nh dục trong văn chương không phải là điều ǵ mới mẻ. Nó đă có mặt trong nhiều  tác phẩm văn chương cổ điển Trung Hoa. Ở Việt Nam, truyện Kiều cũng phảng phất t́nh dục. Thơ Hồ Xuân Hương cũng thế. Ở miền Nam trước 1975, t́nh dục cũng đă có mặt trang văn chương, dù không được phổ biến. Chẳng hạn như “T́nh cao thượng” của Nguyễn Mạnh Côn, một vài truyện ngắn khác của Vơ Phiến hay trong truyện của Thế Uyên, Túy Hồng hay Nguyễn Thị Thụy Vũ… Nhưng nói chung trong một hoàn cảnh xă hội như xă hội miền Nam thời đó, t́nh dục trong văn chương vẫn c̣n là thứ t́nh dục “ấp úng”, chưa nhà văn nào can đảm khai thác đến nơi đến chốn. Sau 1975, ra nước ngoài, với một môi trường mới mẻ, cởi mở và được tiếp cận với văn chương thế giới, nơi mà chuyện t́nh dục chỉ là “chuyện thường ngày ở huyện”, t́nh dục trong văn chương Việt Nam Hải Ngoại dần dần cũng đă trở thành “chuyện thường ngày ở huyện.”  Ở trong nước cũng thế. Không những trong văn mà c̣n ở trong thơ. Thực t́nh mà nói, đối với người sáng tác, t́nh dục là cuộc sống, là một chất liệu như các chất liệu khác cho sáng tác văn chương. Dẫu vậy, do nhiều nguyên nhân tâm lư cũng như xă hội, sử dụng yếu tố t́nh dục đ̣i hỏi sự đắn đo, thận trọng.

Với tôi, t́nh dục trong sáng tác cần phải có. Nó như một thứ gia vị, hay nói như anh,” một thứ hương liệu tiểu thuyết”. Văn chương, ngoài cái thơ mộng, dí dỏm, nhân bản…cũng phải có thêm cái ǵ đăng đắng, cay cay, mằn mặn, bùi bùi…  để có thể vượt qua. Nói hơi quá, theo tôi, khuớc từ (hay lên án) đưa t́nh dục vào văn chương cũng là một… sự kỳ thị, kỳ thị với cuộc sống (cuộc sống vốn đâu có tội t́nh ǵ!), anh Trung à. Riêng cá nhân tôi, đưa t́nh dục vào một số sáng tác cũng có phần “méo mó nghề nghiệp”. Trước 1975, tôi có dịp nghiên cứu ít nhiều về phân tâm học, nên chịu ảnh hưởng. Với phân tâm học, như anh biết, t́nh dục đóng một vai tṛ khá quan trọng trong việc h́nh thành cá tính, quan điểm sống cũng như quan hệ với xă hội. Nó là một sức mạnh vô thức, phần nào chi phối các hành vi, cử chỉ và thái độ của con người.

 

LTT:

Thưa anh,

Như anh vừa nêu:” Với phân tâm học, tính dục đóng một vai tṛ quan trọng trong việc h́nh thành cá tính, quan điểm sống cũng như quan hệ với xă hội”. Xin anh nói rơ thêm một chút về quan điểm này và có ǵ làm bằng chứng cụ thể không, thưa anh ?

 

TDN:

Phân tâm học là một lư thuyết tâm lư đưa đến nhiều thay đổi về tư tưởng trong thế kỷ 20, khó có thể giải thích qua chỉ vài gịng hay một bài viết ngắn, anh Trung à. Như tôi đă nói, tôi bị “méo mó nghề nghiệp”, nghĩa là bị ảnh hưởng, nên t́m cách xây dựng nhân vật dựa trên một vài quan điểm mà thực sự đến nay vẫn c̣n là đề tài tranh căi. Thành thử nếu anh hỏi bằng chứng th́ tôi …đành chịu.

 

LTT:

Theo ư tôi, khi sáng tác, có thể người ta dựa trên sự thật, có thể hoàn toàn là hư cấu; nhưng hư cấu hay sự thật, cả hai đều không quan trọng bằng những tiếng động, những lời th́ thầm, những ǵ đă xảy ra có hợp với tâm trạng và cảnh ngộ của hai nhân vật vào một khoảnh khắc ngàn vàng đó hay không mới là điều quan trọng. Và sự việc xảy ra mà không làm trục trặc ḍng suy nghĩ của người đọc, không phải đặt lại những câu hỏi tại sao họ gặp nhau ở giữa rừng và tại sao họ lại hiến thân cho nhau, vân… vân và vân … vân…. Điều đó cho thấy dù là hư cấu hay có thật, tác giả đă làm xong phần viết truyện của ḿnh một cách hoàn bị rồi. C̣n truyện có được khen hay chê, nhân vật có c̣n được ai nhớ và nhắc hay không, lại là phần khác, không phải do nơi tác giả nữa. Anh nghĩ sao về nhận xét thiển cận này?

 

TDN:

Chắc là anh đề cập đến đoạn cuối của “Dặm trường”, là đoạn mô tả cảnh gặp gỡ bất ngờ giữa rừng trong trại cải tạo giữa nhân vật chồng và nhân vật vợ, hai người ân ái với nhau sau đó mới nhận ra nhau. Phải không anh Trung?

 

LTT:

Phải, anh Nho à.

 

TDN:

Cũng như anh, nhiều độc giả thắc mắc, không phải v́ cảnh ân ái, mà cảnh vợ chồng gặp nhau mà không nhận ra nhau. Cảnh đó hoàn toàn phi lư và nói như anh, có ǵ “trục trặc”.  Vâng, không những trục trặc mà hoàn toàn trục trặc. Thực ra, đó là một trục trặc cố ư. Thay v́ để cho độc giả khép sách lại và …đi chơi, tôi muốn để lại trong đầu độc giả một dấu hỏi, nghĩa là một trục trặc. Kể ra như thế là có phần “gian”.

Thông thường th́ dù là chấp nhận hư cấu, người ta thích mọi sự đều diễn ra hợp t́nh, hợp lư và không quá xa sự thật. Kết thúc của “Dặm trường”, nếu có thể gọi là một “kết thúc”, đều nằm ngoài cả ba cái đó. Tôi chọn kiểu kết thúc này như một giả thiết. Anh để ư mà xem, trong suốt truyện, tôi đă đưa vào bao nhiều điều vô lư tưởng chừng như không thể nào có trong cuộc sống, ấy thế mà chúng lại là sự thật, chẳng hạn như cả chuyến tàu đều bị tuôn hết hàng hóa, hoặc chuyện đổi tiền năm 1985 hay chuyện “xây dựng xă hội chủ nghĩa”…Hay gần đây hơn, biến cố 11/9 ở Hoa Kỳ. Thực mà như ảo và c̣n hơn cả ảo. Ảo mà lại như thực. Biên giới giữa thực và ảo không lúc nào mỏng manh như lúc này. Có điều, nếu độc giả lưu ư cách đối thoại và khung cảnh mà tôi cố ư tạo ra, th́ đó một cảnh giả. Tất cả chỉ là do ḷng “tơ tưởng” đi đến độ hoang tưởng của anh chàng tù nhân Lục vắng đàn bà lâu ngày mà sinh ra. (cảnh trong rừng này là cảnh tôi đă kinh qua vô số lần khi ở trong trại tù khi đi t́m bổi, giang, lồ ô…).  Khi viết chương này, tôi nghĩ đến cái thời hồng hoang, thời của Adam và Eva. Tôi cũng nghĩ đến Hạnh như một bóng ma, có thể lúc đó đang bị ch́m tàu trong một chuyến vượt biên nào đó ngoài khơi Thái B́nh Dương. Tóm lại, là giả thiết. Bằng cách bắt chước cái gọi là “hiện thực thần kỳ”, từ chỗ rất hiện thực, tôi đột ngột đẩy tất cả vào hoang đường.  Từ thực, tôi đẩy đến ảo. Như là một lối thoát ra khỏi không khí chất chứa toàn là sự kiện trong suốt truyện.

Nhà văn Phạm Xuân Đài (trong bài “Đọc Dặm trường”, thế Kỷ 21, số 150, tháng 10/2001) phần nào chia xẻ tâm tư của tác giả, khi ông nhận xét: “chương cuối là một chương mang không khí siêu thực. Sự việc diễn ra như một tượng trưng, một cô kết thoát khỏi mọi thực tế tàn nhẫn của cả một bi kịch dài (…) Ngay đối thoại của họ sau đó cũng như những lời vang vọng từ đâu đó của hoang dă”.

Nhiều độc giả khác không chia xẻ cái nh́n đó.

Riêng anh, anh nhận xét: “Điều đó cho thấy dù là hư cấu hay có thật, tác giả đă làm xong phần viết truyện của ḿnh một cách hoàn bị rồi. C̣n truyện có được khen hay chê, nhân vật có c̣n được ai nhớ và nhắc hay không, lại là phần khác, không phải do nơi tác giả nữa.”

Đúng như thế, anh Trung à. Công việc của tác giả là: hoàn tất tác phẩm. Và chỉ như thế mà thôi.Theo tôi, thái độ hay nhất của tác giả là: đừng nên hoang tưởng về tác phẩm đă ra đời của ḿnh.

Riêng tôi, khi viết xong mấy trăm trang chữ của “Dặm trường”, đọc đi đọc lại, sửa lên sửa xuống, thêm đoạn này bỏ đoạn kia, ḷng phân vân không biết số phận nó như thế nào, tôi nghĩ đến người phụ nữ mang nặng đẻ đau, bèn viết ở trang cuối cùng: “Viết rồi, đọc lại, muốn viết lại từ đầu, nhưng quá muộn. Nó đă chào đời.” Và tôi quyết định cho nó ra đời, ḷng bỗng dưng nhẹ nhơm. Hơn mười năm sau, đọc lại, cảm giác cũng không mấy khác.  Vâng, với tôi,  “Dặm trường” chứa đựng nhiều nhược điểm điển h́nh của một truyện dài đầu tay. Không những chỉ “Dặm trường”, mà đọc lại những ǵ ḿnh viết, bao giờ tôi cũng có cảm giác thất vọng. Nếu xem mỗi tác phẩm là một đứa con th́ đứa con nào dường như đều có khuyết tật. Thế mà lạ, tôi vẫn tiếp tục viết. Và rồi lại thất vọng. Tôi nhận ra một điều, anh Trung à: cái lạ của văn chương là không phải cứ thích viết hay là nó hay và thích… viết dở là nó dở. Văn chương cũng không hẳn là sở học. Không hẳn là tay nghề. Văn chương không phải là thứ người ta có thể cưỡng cầu. Văn chương h́nh như chỉ là …văn chương. Thích viết ư, mời cầm bút lên mà viết. Bằng tấm ḷng. Hay ư, dở ư….

Nhưng tôi vẫn có cảm giác tự hào: sự có mặt. Đối với những ǵ tôi đă viết ra, tôi không “cưng” chúng, nhưng thành thật quư chúng. Văn chương, nghĩ cho cùng, là sự có mặt. Với tôi, viết là một cách thế hiện diện. Hơn thế, một thách đố với những thất vọng về chính ḿnh. Trong một hy vọng vượt qua khỏi ḿnh. Chừng đó là

đă quá lớn cho một giấc mơ rồi, anh Trung à!

 

LTT:

Thưa anh TDN,

Lâu này, tôi thấy anh cũng viết lai rai, nhưng không đều đặn như thời gian đầu khi mới qua định cư. Lâu quá mới đọc được tùy bút “T(uy)ết trắng” của anh trên Da Màu vào ngày mùng một Tết Tân Măo này. Thời gian sau này, h́nh như cách viết của anh có khác.  Anh có c̣n viết thêm truyện nào mang đậm chất tính dục nữa không? Và với anh nhơn Tết này, ở khía cạnh viết lách, anh mê ǵ nhứt trong những ngày sắp tới, thưa anh ?

 

TDN:

Anh LTT mến,

Hiện nay, đề tài tính dục không c̣n (hay ít) ám ảnh tôi nữa. Sau một số thử nghiệm, tôi có cảm giác ḿnh vượt qua được nó rồi. Có lẽ v́ trong xă hội Mỹ (và xă hội VN hiện nay), yếu tố tính dục không c̣n bị húy kỵ như xưa, nên vấn đề chuyển sang phía khác. Tôi lại bị ám ảnh bởi một yếu tố khác: chữ. Chữ/ nghĩa là động lực gây ra vô vàn điều xấu trên thế gian. Chữ và nghĩa, hai vấn nạn lớn của con người trong thời đại truyền thông. Chung quanh ta toàn là chữ và chữ. Số chữ th́ giới hạn mà nghĩa th́ vô cùng. Chúng ta bị chữ vây bủa và uốn nắn mà vẫn cứ tưởng ḿnh làm chủ được ḿnh. Tôi đang t́m hiểu về “Kư hiệu học” (Semiotics) là môn nghiên cứu về các kư hiệu (signs), đặc biệt là chữ và vấn đề ẩn dụ (cũng liên quan đến chữ) và dự định viết một tiểu luận về vấn đề này. Và cũng đang sáng tác một truyện ngắn liên quan đến “chữ”. Ngoài ra, trong năm này, tôi sẽ in tiếp một tập truyện ngắn gồm có những truyện và tùy bút tôi đă viết trong thời gian trước đây.

 

LTT:

Ngoài ra, được biết anh c̣n kư bút hiệu Thế Quân trong mục "Tin Văn" trên tạp chí Văn Học ở California do nhà văn Nguyễn Mộng Giác làm chủ bút. Với công việc này chắc anh phải đọc báo văn học ngoại quốc nhiều, dĩ nhiên mất nhiều th́ giờ. Anh có thể chia sẻ một chút về công việc đúc kết các trang tin văn này và những trở ngại cùng lợi ích của công việc đúc kết này trong sáng tác của anh có nhiều lắm không, thưa anh?

 

TDN:

Cám ơn anh nhắc đến Thế Quân. Vâng, với bút hiệu này, tôi đă phụ trách phần “Tin Văn”  cho tờ Văn Học trong gần 4 năm, từ số 179 (tháng 3/2001) cho đến số 222 (tháng 11&12 /2004, khi Văn Học được chuyển giao cho nhà văn Cao Xuân Huy.  Trong những lần ghé  quận Cam (California), thăm anh Nguyễn Mộng Giác, chứng kiến anh một ḿnh một chợ dành rất nhiều thời gian để chăm lo cho tờ Văn Học, với tấm ḷng muốn duy tŕ tiếng nói văn chương của người Việt hải ngoại, thấy anh Giác gần như hy sinh công việc sáng tác, tôi nhận lời tiếp tay anh bằng cách phụ trách hẳn phần Tin Văn. Một mặt, để phổ biến tin tức và văn học thế giới đến độc giả Việt Nam, mặt khác, để lấp đầy một số trang, đỡ đi một phần nào nỗi lo lắng bài vở mà người chủ biên nào cũng đêm ngày lo lắng. Với trung b́nh khoảng 10 trang tin văn cho một số báo, tôi cũng khá bận bịu. Ngày nào cũng phải đọc nhiều tờ báo văn học khác nhau, t́m tin, lựa tin rồi tra cứu về tác giả và tác phẩm. Đọc và dịch. Với ư định để cho độc giả nắm vững ngọn nguồn, nói là tin, thực ra, không chỉ là đưa tin, bản tin nào tôi cũng cố gắng viết như một bài viết và  có khi viết hẳn thành một tiểu luận.

Lúc đầu là do muốn đóng góp, đến khi quen, tôi đâm ra thích thú với công việc. V́ nhờ đó, mà tôi có dịp đi sâu vào sinh hoạt văn chương thế giới, có dịp tiếp cận được cái phong phú, cái đa dạng của văn chương nhiều nước. Càng biết, càng học hỏi mới càng thấy ḿnh nhỏ bé và càng thấy cái cộng ḥa văn chương Việt Nam ḿnh c̣n chật chội, c̣n thiếu thốn, c̣n khiêm tốn quá.

Tôi xem thời gian phụ trách Tin Văn cho tờ Văn Học là thời gian nghiên cứu và học hỏi. Cuốn “Tác giả, tác phẩm và sự kiện” là thành quả của thời gian làm Tin Văn.

 

LTT:

Anh Trần Doăn Nho thân mến,

Xin chân thành cảm ơn anh đă chia sẻ vài chi tiết về cách viết truyện của anh, giúp tôi lănh hội thêm phần nào tâm lư các nhân vật mà anh dựng nên với nhiều dụng ư. Nhơn dịp đầu năm mới Tân Măo, kính chúc anh và gia đ́nh nhiều sức khoẻ, vạn an. Và lúc nào tôi cũng hy vọng đọc được thêm nhiều các sáng tác mới của anh trong những ngày sắp tới.

TDN:

Anh Lương Thư Trung thân mến,

Vai hàng chia xẻ cùng anh. Như là một kỷ niệm.
Rất bạn bè và rất văn chương.
Cho tôi gửi lời thăm chị và các cháu cùng cháu ngoại và cháu nội.

Thân,
Trần Doăn Nho

 

LTT:

Anh Trần Doăn Nho,

Một lần nữa xin cảm ơn anh rất nhiều.
Trân trọng kính chào anh.

 

 

Houston,  Ngày Mùng Sáu Tết Tân Măo, nhằm ngày 09-02-2010