đêm thu
nghe nhạc Phạm Duy
Bùi Bảo Trúc
Trong bốn
mùa, Thu là mùa thơ mộng nhất, được nghệ
sĩ yêu thích nhất. Vì vậy, các sáng tác lấy cảm
hứng từ mùa Thu thường chiếm đa số so với
ba mùa còn lại. Trong lãnh vực tân nhạc, nhắc
đến Thu, mình có thể nghĩ ngay đến Thu
của Nguyễn Văn Khánh, mang quá nặng âm hưởng
của Stormy Weather nếu không nhờ hình ảnh lướt
thướt bao áng mây Thu vàng kéo ta trở về Đông
phương. Một bài khác về Thu được
nhiều người ưa thích chính là Buồn Tàn Thu
của Văn Cao. Bài hát có nhiều hình tượng thật
đẹp nhưng... hỏng về nhạc.
Lúc đó, có
lẽ Văn Cao còn non tay và viết theo cảm hứng liên
miên bất tuyệt, rồi chợt thôi. Bài hát này hỏng
vì chủ điểm khởi lên bất ngờ nhưng miên
man không dứt mà lại có thể kết thúc bất cứ
nơi nào. Mình cứ nghe thử lại mà coi, bài hát có
thể dứt bất ngờ mà chẳng mất gì: mỗi
đoạn lại là một bức tranh đẹp,
kết hợp làm một mà thiếu giai điệu chủ
đạo, thiếu cái nét chính trong toàn tác phẩm,
thiếu cái khí Thu. Đây là ca khúc tả tình hơn tả
cảnh, và không có cái hơi Thu đằng đẵng
của Trường ca Sông Lô :
Sông Lô!
Sông ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi
rừng âm u.
Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một
màu khói thu...
Chúng ta không
biết phần đóng góp của Phạm Duy trong Suối
Mơ của Văn Cao gồm những gì, nhưng,
về nhạc thuật, ca khúc này rõ ràng là có carrure
hơn, khai mở và kết thúc đâu ra đấy...
Suối ơi, bên rừng Thu
vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng...
Một ca khúc
nữa về Thu, cũng được rất nhiều
người ưa chuộng, có gặp nhược
điểm của Buồn Tàn Thu, đó là Tiếng Chuông
Chiều Thu của Tô Vũ. Bài hát này mà được
cắt vài đoạn -- là điều Vũ Thành đã làm
năm xưa, trong hòa âm của ông -- thì thật tuyệt !
Nhưng vì sao,
hình như nói về Thu, ta cứ hay nhớ đến các ca
khúc "tiền chiến" như vậy? Phải
chăng sau đó mùa Thu đã tàn tạ, hoặc đã
"Nam tiến" và hòa vào hai mùa nắng mưa trong Nam? Thu
Vàng của Cung Tiến là ca khúc ông không thích lắm, dù
nhiều người cho là hay nhất, vì gợi lại
hơi Thu của Hà Nội. Nhớ Hà Nội là chúng ta
lại rộn ràng hát Thu Vàng với niềm luyến
tiếc, nỗi bâng khuâng nhè nhẹ.
Nhắc đến Buồn Tàn
Thu của Văn Cao chúng ta nhớ lại hình ảnh nàng
chinh phụ ngồi đan áo, nhìn mùa Thu của đất
trời và tuổi thanh xuân của mình lui dần vào Thu. Có
tiếng động ngoài cửa là nàng lại ngoái nhìn,
rồi lại tuyệt vọng. Vẫn chưa phải là
chàng. Nên đành nghe mùa Thu rớt, rơi trên lá vàng... Gần
như cùng một thời kỳ đó, với cùng chủ
đề, một ca khúc khác đã xuất hiện mà
thời nay ít người còn nhớ. Chính là Chinh Phụ
Ca, của Phạm Duy.
Từ chàng ra đi
Lưng khoác chiến y
Và hồn nương bóng quốc kỳ
Bài này ít
được chúng ta nhớ có thể vì ngôn ngữ cổ
phong, ý tứ diễm lệ với hình ảnh
được cách điệu hóa về chinh nhân, nhưng
là một bài cực hay về cả từ lẫn nhạc.
Ca khúc không nói gì về Thu, mà nghe vẫn ra mùa Thu, kể
cả câu cuối:
Ngựa hồng âu yếm bước sang
Trên lưng có chàng trai tráng
Đem theo biết bao nhiêu ngày vàng.
Ngày vàng đó
có thể là những đêm ngà ngọc sau bao tháng ngày xa
vắng, nhưng mình nghe vẫn thấy phảng phất
hương Thu tỏa nắng vàng trên giây phút đoàn
tụ. Một ca khúc nữa, có thể được
Phạm Duy sáng tác trong cùng thời kỳ, ngày nay cũng
bị lãng quên. Đó là Thu Chiến Trường.
Trong thời
kháng chiến chống Pháp, biến cố 19 tháng Tám
được gọi là "Cách mạng mùa Thu" và mùa
Thu vì vậy được đem vào rất nhiều hành
khúc, thí dụ điển hình là Nhạc Tuổi Xanh (Một
mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra... ) Nhưng, khác
hẳn những bản hùng ca lấy mùa Thu làm cái cớ,
chính trị hóa mùa Thu, bài Thu Chiến Trường
của Phạm Duy vẫn hùng mà lại có không khí bi thảm
lạ thường, như báo trước những
hoạn nạn chính trị sẽ xảy ra cho người
nhạc sĩ vào thời kỳ tham gia kháng Pháp. Đây là
một ca khúc "phản chiến" trước khi
từ này được phát minh vì thường nhắc
tới cái chết cùng với ước vọng hòa bình.
Thực ra, mùa Thu chẳng là mùa của sự tàn tạ
để chuẩn bị cho mùa Xuân đó sao?
Thu ơi Thu, ta vỗ súng ca
Ca cho đời, cho Thu với ta.
Nơi biên khu, mong nhớ khúc ca
Câu Thái hòa cho muôn chúng ta.
Ngày nay, hình
như chỉ còn Kim Tước nhớ và hát lại ca khúc
này, một trong những bài hát về Thu độc đáo,
vừa ngợi ca kháng chiến vừa ước mơ
thanh bình, với nhịp trầm hùng, mà vẫn có nét bi
thảm, giai điệu rất cổ mà có những
chuyển khúc thật mới.
Bồi
hồi nhớ lại thì hình như mình phát giác ra một
điều... Hãy nghe lại Chinh Phụ Ca và Thu
Chiến Trường của Phạm Duy rồi Buồn
Tàn Thu và Thu Cô Liêu của Văn Cao, chúng ta thấy
cuộc đời của hai người bạn nhạc
quả là tương phản. Phạm Duy đam mê hơn
nhưng nhân bản hơn, và nhất là lạc quan hơn.
Cho nên, ngay giữa sự chết chóc trong biên khu, ông đã
muốn hát câu thái hòa cho mọi người, ông đã
nghĩ đến ngày chinh phu trở về trên ngựa
hồng cùng nàng chinh phụ. Đêm Thu ở nơi đây mà
nghe lại những ca khúc đó, mình hiểu vì sao chỗ
của ông không thể là ở trong núi rừng Việt
Bắc để rồi "kháng chiến thành công"
sẽ trở về Hà Nội như một chính ủy hay
Tổng thư ký hội Nhạc sĩ của cộng
sản được! Như trong bài Tiếng Hát Lênh
Đênh của Lương Ngọc Châu và Tử Phác, khi
người ta >i>nghe ầm vang lên tiếng chiến
chinh, thì Phạm Duy lại... mơ làm diều mang sáo thanh
bình... Cái tội "không oán thù" đó to lắm.
Nhưng,
đang nhớ về Thu mà nói chuyện đó, đâm
mất thú!
*
Một
ca khúc nữa của Phạm Duy, Đường
Chiều Lá Rụng, được ông viết sau này,
cũng gợi nhớ đến Thu:
Chiều rơi trên đường vắng
Có ta rơi giữa chiều
Hồn ta theo vạt nắng,
Theo làn gió đìu hiu,,,
Không phải vạt nắng hay làn
gió đìu hiu, mà cũng chẳng vì :
Lá vàng bay, lá vàng bay
Như dĩ vãng gầy,
Tóc buông dài,
Bước ra khỏi tình phai
… mà cũng
chẳng vì những chiếc lá vàng rơi, lá vàng rơi...
Bài hát gợi
lên cảm xúc về mùa Thu của đời người,
khi chuyện tử sinh đã lởn vởn trước
mắt với sự dịu dàng, bình thản. Đây là
một ca khúc trác tuyệt nhất của Phạm Duy mà mình
chỉ nên nghe vào một đêm Thu thật sâu. Lời ca sang
trọng, cao quý, đầy nét siêu thực về nhân sinh thì
chỉ nên nghe và nên ngẫm vào mùa Thu. Mình cứ
tưởng tượng là Phạm Duy viết bài này khi ông
đã trọng tuổi. Thực ra không, ông viết bài này khi
ở tuổi trung niên, với thân thể và trái tim của một
tráng niên. Giữa Sàigon ngột ngạt không khí chiến tranh
mà nghe Đường Chiều Lá Rụng thì chẳng
thấy là mình văn minh lắm sao ! Hãy nghe Hà Nội
thời bình hát ngày nay thì thấy. Ngoài Dương Thụ,
Phú Quang hay Trịnh Công Sơn, mình hiếm thấy gì
lọt tai... Có lẽ phải một thế hệ nữa.
Phạm Duy
nổi tiếng nhất ở công trình cải biên dân ca,
điều này, chúng ta quên rồi. Phạm Duy cũng
nổi tiếng ở nhạc tình, điều này, có lẽ
ai cũng nhớ vì ai chả có lúc mượn lời ca
của ông để tỏ tình của mình ! Nhưng, đêm
nay, có hai bản tình ca vào Thu của ông đáng
được nhắc tới, hơn cả bài Nước
Mắt Mùa Thu. Vì cả hai đều lấy cảm xúc từ
thơ Pháp. Nước Mắt Mùa Thu là khúc bi ca bốn
mùa, buồn thương từng kiếp nằm trong mộ
réo tên người đời quên. Nghe lại bài này, ta
nhớ nhất giọng ca buồn bã vào trong đời úa,
nhớ thương một tiếng hát, một đời
ca sĩ hát trong buồn tênh hơn là nhớ về mùa Thu.
Hai bài kia mới có hơi Thu rất lạ.
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo...
Em nhớ cho,
Mùa Thu đã chết rồi....
Em nhớ cho, em nhớ cho...
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này
Trên cõi đời này...
Đó là
một, Mùa Thu Chết, lấy cảm hứng từ
bài thơ vỏn vẹn năm câu L'Adieu của
Guillaume Apollinaire. Bài kia là Thu Ca Điệu Ru Đơn,
ông cảm dịch từ thơ Verlaine nhưng thổi vào
đó một khí Thu tệ tái rã rượi hơn.
Mùa Thu nức nở tiếng thở dài...
Tiếng vĩ cầm,
Buồn ơi mùa Thu ơi !
Lòng ta khốn khổ với mỏi mòn
Tiếng Thu buồn,
Buồn ru điệu ru đơn...
Chẳng
cần biết hai bài thơ đã gợi hứng cho ông mình
đã thấy hay. Biết hai bài thơ đó rồi,
lại càng thấy thần tình hơn. Cái langueur monotone
qui coule dans mon coeur của Verlaine nó tan biến đâu
mất, mà mình cũng chẳng cần biết hoa
"thạch thảo" là bruyère hay là gì khác, vì nó
đã thành một chùm hoa mùa Thu của Việt Nam. Hai bài
thơ chỉ gợi lên nỗi rung động của
Phạm Duy về mùa Thu, và nỗi rung động đó hoàn
toàn thoát khỏi thơ Tây để tạo ra một
cảnh sắc khác, hoàn toàn khác.
Đêm Thu nghe
tiếng vĩ cầm và tiếng thở dài nức nở,
không ai liên tưởng đến một cabaret hay
phòng nhạc của Tây phương, hoặc những
vẫn thơ lãng mạn của Paris thời xưa mà
chỉ thấy quặn đau niềm đau trước
mắt, ở nơi đây. Hai ca khúc trở thành hoàn toàn
Việt Nam và khí Thu cũng hoàn toàn Việt Nam, nghẹn ngào
mà đầy não tính của một thành phố khắc
khoải trong chiến tranh.
Từ Thu
Chiến Trường viết thời kháng chiến âm u
cho đến Thu Ca Điệu Ru Đơn viết
tại Saigòn u ám, mùa Thu đã biến dạng, trở nên
gần gũi hơn. Như từ một bức tranh
cổ, nàng Thu đã bước xuống, vít lấy
đầu chúng ta, để giọt lệ lã chã rơi,
nóng hổi, trong tiếng vĩ cầm ai oán nức nở.
Sau này,
Phạm Duy còn sáng tác một ca khúc không còn Thu, dù tên là Nghìn
Thu. Nghìn Thu đó là thiên thu, là đời người
vĩnh cửu, là khi ta đi về coi chung. Kẻ viết
bài này trộm nghĩ rằng đó là bài "đạo ca
thứ mười một", trong nhịp ba bốn
rộn ràng về đời người, không phải
về mùa Thu của thi nhân.
Một ca
sĩ nổi tiếng của Hoa Kỳ là Bing Crosby, có nói như
sau về một bậc sư của nhạc Jazz, Louis
Armstrong: "Louis Armstrong là khởi đầu -- và cũng
là kết cục -- của âm nhạc tại Mỹ."
Nói như
vậy về Phạm Duy, dĩ nhiên, nhiều người
sẽ ngạc nhiên, có khi nổi giận. Nhưng, xin nghe
lại mà xem. Trong tháng tới đây, khi khí Thu đã già, hình
như mình sắp có một buổi trình diễn nhạc
Phạm Duy tại miền Nam California. Mãi rồi cũng
phải có một lần, xin hãy đến nghe và tự
hỏi lòng mình, rất thành thật: sau ông, còn mấy ai?..
Thu ơi, buồn vô
hạn
Bùi Bảo Trúc