Du T Lê, phết mt cái,

Nguyên Nghĩa

 


 

Năm 1973, trong tủ sách của tôi có thêm tập Thơ Du Tử Lê 1967-1972. Tôi đă mua tập thơ ấy ở thư quán Hiện Đại trên đường Lê Lợi, góc Công Lư, cách rạp chiếu bóng Vĩnh Lợi chỉ dăm bước đường. Thư quán ấy là một kiosque quá bé, chỉ hai người đứng bên trong cũng đă chật, không sao sánh nổi diện tích các nhà sách Khai Trí, Xuân Thu. Thế nhưng tôi vẫn thích ghé đấy, mỗi khi cần t́m những tờ tạp chí cũ vài tháng trước, ngay cả dăm cuốn sách chưa được nhiều người biết đến. 

Đă hẳn, thưởng thức thơ không ai đọc vèo một mạch. Tôi đă nhẩn nha với những ḍng Thơ Du Tử Lê, nhưng ngay cả khi mở tập thơ ra, tôi cũng không dám mạnh tay - sợ làm rách lớp b́a giấy mỏng bọc ngoài cái b́a chính của tập sách. Dường như, một phần nào, v́ vậy khiến tôi vẫn nhớ tập thơ ấy suốt 27 năm nay. Sau tháng 4-1975, đáng buồn là tập thơ ấy chịu cùng số phận với rất nhiều sách khác, đă lọt vào tay những người không hiểu giá trị văn chương, và không biết trân trọng thơ, lúc họ vào nhà tôi “đánh tư sản”.

Tôi mất hết sách, và cả tập thơ ấy, nhưng những ḍng thơ vẫn c̣n. 

Và cơ duyên c̣n cho tôi gặp lại tập Thơ Du Tử Lê một dịp khác, dù không phải là tập thơ tôi đă sở hữu. 

Năm 1981, tại nhà một người bạn du học ở Vaihingen, ngoại ô Stuttgart, bên Tây Đức, tôi thấy tập thơ trên kệ sách. Có lẽ người bạn ấy đă mang theo rời Sài-g̣n sau chuyến nghỉ hè.

B́nh thường, ít ai nhớ nhiều chi tiết về một cuốn sách. Riêng tôi, cho tới bây giờ mỗi khi tṛ chuyện với bạn bè về thơ Du Tử Lê, tôi vẫn nhắc đúng những nét đặc biệt của tập thơ ấy. Đó là một tập sách hai b́a, với tranh Hạ Quốc Huy, với b́a giấy mỏng bọc ngoài, với những đoạn thơ Du Tử Lê c̣n in trong trí nhớ tôi:

...

đời xa chưa thể về gần

loanh quanh nỗi chết chờn vờn hơi quen

thù gh́m trong một dao điên

chém ngang vai mỏng xẻ nghiêng mặt buồn

...

(bài chờ nhắm mắt,)

...

thụy ơi và thụy ơi

đừng bao giờ em hỏi

v́ sao ḿnh yêu nhau

v́ sao môi anh nóng

v́ sao tay anh lạnh

v́ sao thân anh rung

v́ sao chân không vững

v́ sao anh van em

hăy cho anh được thở

bằng ngực em rũ buồn

hăy cho anh được ôm

em, ngang bằng sự chết

...

(khúc thụy du,)

...

người ở đây, ta cũng ở đây

ḷng không như mặt, ḷng lệ đầy

chân đi gió tạt sầu ba hướng

tay vói một trời, trời mưa bay

...

(t́nh sầu du tử lê,)

Khi đó, với Thơ Du Tử Lê tôi cảm nhận như thể vừa khám phá một món ăn lạ miệng. Món ăn lạ, thường làm người ta ngần ngại không dám thử. Nhưng khi đă thử lần đầu, đă quen, người ta bắt đầu thưởng thức. Giống như khi nhắp ngụm cà-phê đầu tiên, chỉ thấy đắng mà chưa biết ngon. Lần kế đó cà-phê sẽ ít đắng hơn một chút, và dần dà người ta khó ḷng từ bỏ cà-phê.

Thơ Du Tử Lê trong tập sách ấy có nhiều dấu phẩy, mà tôi quen gọi dấu phết, theo cách gọi của người miền Nam.

Tôi thích những dấu phết, chen giữa ḍng thơ và ở cuối mỗi cái tựa đó. Tôi nghĩ, chắc sắp qua rồi cái thời ca dao xuôi chảy, lục bát tṛn trịa; chắc đủ nhiều rồi những bản nhạc t́nh điệu Bolero nghe măi không c̣n cảm xúc, cần có những bản mới với tiết điệu Moderato, Andantino, với “chậm buồn, kể lể”, để người ta có thể diễn tả tùy tâm cảnh, tùy sự rung động bên trong. Cái trăn trở, cái vật vă, cái hoảng hốt, cái rất gần với tuyệt vọng, không diễn tả hết được bằng “ca dao” sáu-tám, bởi ḍng chảy của nó vốn êm ả đều đều. V́ vậy mà phá cách, ngắt quăng, cắt rời, bằng những dấu phết nên được coi là những nhịp thở cần thiết để tạo nên các tiết điệu mới cho thơ.

Cách đây đúng hai năm, gặp thi sĩ Du Tử Lê ở Đại Hội Báo Chí Truyền Thông Việt Ngữ tại Florida, trong giờ ăn trưa, tôi đă đùa với thi sĩ là thơ Du Tử Lê có lúc chỉ dành để ngâm mà không nên đọc như đọc chính tả. Tôi nêu thí dụ, sau câu tỏ t́nh chẳng hạn “anh yêu em,” có một dấu phết, nếu đọc chính tả sẽ phải đọc là “phết một cái”. Đọc 6 chữ kế tiếp nhau như vậy th́ chẳng khác nào giết thơ!

Và nếu chỉ nói về những dấu phết, mà không nói về những mở và đóng ngoặc, những gạch giữa, và những gạch nối, để đưa ra một ư tưởng khác hoặc để cột chung một số từ vào thành cụm từ, th́ chưa tả hết cái “nét” thơ Du Tử Lê đă khiến tôi mải mê trôi trong ḍng thích thú bất ngờ.

...

thơ vui đấy, em hăy cười lúc đọc

nếu có buồn hẵng gượm để hôm sau

hăy để mai kia, anh được phép trầu cau

đến sêu hỏi em hẵng buồn một thể

bởi lúc ấy biết đâu cả hai đă chẳng cùng lụ khụ

cùng xác xơ v́ đă quá âu lo

nên anh chắc thơ anh sẽ c̣n buồn bă măi

(nhưng em đừng buồn nản giống thơ anh)

phải nghĩ bao lâu, mới có cuộc t́nh

mà hai kẻ yêu nhau đă vô cùng khốn khổ

...

(dỗ giấc người bất hạnh,)

...

người qua đó, chân giầy, xin bước chậm

để chim về kịp thở chút hương tan

để ta về kịp nhận vết thương non

kịp gọi khẽ (để cho giun dế ngủ)

...

(bài cuối năm,)

...

ta như cỏ nên nhận phần héo úa

người như sương nên ướp lạnh hồn buồn

t́nh đă được đặt trên bàn mổ xẻ

th́ hiểu ǵ? em, tảng đá cô đơn

hiểu ǵ em? một cọng lá sâu ăn

hiểu sao được! cuộc đời - anh khinh bạc

...

(sau ba mùa tăm tối,)

 

Ở đầu tập thơ, Du Tử Lê đă viết Vài hàng cũng xin gọi là tựa,:

“Tôi làm thơ v́ những hạnh phúc không đạt được, nếu hiểu hạnh phúc là mục đích cuối cùng của đời người. Do đó thơ tôi là những khúc-ca ngắn cho-một-ḿnh hay cho-hai-người.

Xin cám ơn những-một-ḿnh và những-hai-người.”

Có ai chăng, thắc mắc tại sao thi sĩ không dùng những cụm từ khác, những-con-người-lẻ-loi và những-đôi-lứa chẳng hạn? Với cách nghĩ rất riêng tư, tôi cho rằng một-ḿnh khác với lẻ-loi, và hai-người không nhất thiết là đôi-lứa. Một-ḿnh, có thể là tự nó tách ra khỏi cái cận kề chung quanh, trong khi đó, lẻ-loi, cho thấy những thứ chung quanh nó xê ra dang ra khỏi nó. Hai-người, không nhất thiết là không tách ra được, không có nghĩa là sẽ không trở thành những-một-người. Như vậy, cái hạnh phúc mà Du Tử Lê nói đến, nếu có đạt được cũng chưa chắc đă là thứ hạnh phúc gắn bó, măi măi...

Thiết tưởng nên nói thêm, không phải là tôi cảm thơ (Du Tử Lê) chỉ v́ những hạnh phúc (tôi) không đạt được, hoặc v́ nó phù hợp tâm cảnh tôi. Bởi lúc tôi đọc Thơ Du Tử Lê và yêu những bài thơ trong đó, tôi đang trong t́nh trạng hai-người chứ không phải một-ḿnh.

Mỗi người có cách nghĩ, cảm nhận và lối diễn đạt khác nhau. Sự cảm nhận ở tôi rất riêng tư, không bị ràng buộc bởi qui tắc nào. Tôi không tán đồng việc soi thơ bằng kính lúp khoa học và việc dùng khoa học phân tích thơ. Tôi nh́n thi sĩ hoàn toàn không như nh́n người thợ nề, không như nh́n chuyên viên xây cất. Tôi chỉ quan niệm giản dị, thi sĩ là người chắp lại những mảnh rời, tùy hứng, tùy thích. Tôi cho rằng thi sĩ là nghệ sĩ sáng tạo, và trong sự sáng tạo không có sắp xếp một cách cố ư. Nếu trong thơ có sự g̣ bó th́ bài thơ hỏng. Th́ thơ thành vè, thơ thành sớ, hoặc thành bất cứ thứ ǵ khác không phải là thơ.

Nếu thơ Du Tử Lê không thơ, th́ đă không thể gây rung cảm, th́ đă không thể gợi nhạc hứng một cách dễ dàng và hẳn đă không có khá đông nhạc sĩ mang thơ Du Tử Lê phổ thành nhạc. Trên ngọn t́nh sầu, Khi cuộc t́nh đă chết, T́nh sầu Du Tử Lê, Khúc thụy du, Trong tay Thánh nữ có đời tôi, Đêm nhớ trăng Sài-g̣n, v. v  là những nhạc phẩm phổ từ thơ Du Tử Lê rất nhiều cảm xúc, dĩ nhiên. Nếu “mồi” không bắt, làm sao thành “cuộc rượu”?  

Cho nên, lúc sau này, khi một vài người nhận xét rằng Du Tử Lê chỉ “làm dáng” cho thơ lạ mắt hơn, nôm na là mang thơ đi “thẩm mỹ viện” sửa dung mạo cho thơ, tôi không đồng ư một tí nào. Tôi vẫn tin rằng, khi ḍng thơ gợi được những rung động nơi người đọc, th́ đó thật sự là thơ và là thơ hay. C̣n cái h́nh dáng bên ngoài, thể thơ xuôi, lục bát, ngũ ngôn, hoặc thất ngôn..., những dấu phết, dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu gạch nối, dấu chém/slash..., là những yếu tố cần để tạo nên tiết điệu cho thơ.

Riêng những dấu chém/slash, trong thơ Du Tử Lê lúc sau này không hẳn chỉ là để “ai muốn đảo lộn thứ tự những nhóm chữ giữa hai dấu chém, biến bài thơ thành một bài thơ khác cũng được”, mặc dù chính thi sĩ “cho phép” đảo lộn như vậy. Đảo lộn, ngay cả có sự “cho phép” của thi sĩ, chẳng qua chỉ là một cách “đùa giỡn chữ nghĩa”, chứ không phải là sáng tạo thơ. 

Tôi biết rơ sự giới hạn, tôi không thể nói hết mọi điều về thơ Du Tử Lê. Nên nhường chỗ cho những người khác nói, hay hơn. Nhưng tôi biết chắc là thơ Du Tử Lê sẽ không mai một. Nó không thể mai một, cho dù bất cứ cá nhân, thể chế, chủ thuyết nào nhất quyết xóa nó khỏi những trang sách chăng nữa.

 

 

Nguyên Nghĩa

Toronto, tháng 6 năm 2000