“DU BINH LA” VÀ

PHAN NHT NAM,

MT THI CHINH CHIN

 

NGUYN MNH TRINH

 

 

 

 

 

 

 

 

         

 

 

 

 

         Những năm của thập niên 70, có lẽ là những năm đẹp nhất của cuộc đời tôi. Ở tuổi mới lớn, nh́n mọi sự việc đơn giản , cái lăng mạn của tuổi trẻ đă mang sự suy nghĩ đi xa hơn thực tế cuộc sống. Lúc ấy , chiến tranh bắt đầu tàn khốc . Những người bạn cùng lớp , có đứa đă mặc quần áo lính và cũng có đứa  đă nằm xuống với lá cờ vàng ba sọc đỏ trên mộ và hàng chữ Tổ Quốc ghi ơn.   Vào giảng đường  học đại học , thi rớt một năm là vào quân trường ngay. Trong cái không khí ấy, chúng tôi  đă đọc những trang bút kư chiến tranh  của những người đi lính trước , để tưởng tượng ra những khổ nhọc mà sau này, khi đă bắt đầu đoạn đường chiến binh sẽ hiểu thấu.  Có những bài viết, làm xúc động sâu xa . Có những câu thơ  mang đến sự chia sẻ tột cùng.

         Chúng tôi đọc Nguyễn Bắc Sơn . Chúng tôi đọc Phan Nhật Nam. Thấy “Chiến tranh Việt Nam và tôi”. Thấy “Dấu Binh Lửa". Thấy “ Mùa Hè Đỏ Lửa”. Thấy những người chết và những người đang lầm lũi trong khói lửa chiến tranh.

         Như Đỗ Quư Toàn  đă đọc  “ Ngày mưa đọc lại Dấu Binh Lửa”, với những cảm giác bàng hoàng, của những thiên anh hùng ca tàn khốc, vỡ vụn:

 

ngày mưa đọc lại Phan Nhật Nam

trời bỗng xầm đen tóe sấm sét

mặt đất ào ào trận pháo tuôn

trong thành  phố tử thần co quắp

viên đạn cuối cùng đă bắn đi

người chết giữa trời trên đồng cháy

hồn anh thảng thút bay lên không

suốt dọc Trường Sơn đất run rẩy

mặt trời chưa thấy đêm dài ôi

từng khối lớn mênh mang đặc cứng

qua khe nh́n lại đồi C2

nhớ lại anh em ta nằm xuống…”

 

         Chiến tranh , là những điều quái gở , là chuỗi dài chém giết cả mấy chục năm , như Nguyễn Bắc Sơn thổ lộ:

 

 "Kẻ thù ta ơi những đứa xâm ḿnh

Ăn muối đá mà điên say chiến đấu

Ta vốn hiền khô ta là lính cậu

Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo

Mang trong đầu những ư nghĩ trong veo

Xem cuộc chiến như tai trời ách nước

Ta bắn trúng ngươi v́ ngươi bạc phước

V́ căn phần ngươi xui khiến đó thôi

Chiến tranh này cũng chỉ một tṛ chơi

Suy nghĩ làm ǵ lao tâm khổ trí

Lũ chúng ta sống một đời vô vị

Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau

Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu

Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc

Mang bom đạn chơi tṛ chơi pháo tết

Và máu xương làm phân bón rừng hoang.”

 

          Những bài hát,  có h́nh dáng chiến tranh, có khăn tang cô phụ, có h́nh tượng của một thời núi xương sông máu, dù phản chiến hay cổ vơ chiến đấu , với lời ca từ làm nhỏ lệ chúng tôi. Thân phận con người trong cơn băo lốc như chẳng c̣n chút giá trị. Viết về một thời đại ấy, là kể lại những kỳ tích mà mấy chục năm sau , lớp tuổi  trẻ tiếp theo lớn  lên khó tưởng tượng nổi. Dù rằng, những tác phẩm ấy chỉ nói lên một phần không toàn diện cuộc chiến.

          Một nửa, là ḍng chữ Phan Nhật Nam, một nửa là câu văn Bảo Ninh. (Tôi chỉ nói Bảo Ninh của Nỗi Buồn Chiến Tranh thôi, C̣n Bảo Ninh bây giờ  của “ Tản mạn trên đường bị kẹt xe: th́ hiện nguyên h́nh là một … văn nô có đẳng cấp).  Chiến tuyến phân đôi khiến hai bên chỉ nh́n thấy ở phận ḿnh. Nỗi niềm riêng , của những người bắt buộc lao vào cuộc chiến .Bao nhiêu năm qua, thống hận đă hết nhưng đau xót vẫn c̣n . Những vết thương vẫn chưa lành miệng…

         Nhưng, có người nói bây giờ mà đọc bút kư chiến tranh của thời xa xưa ấyth́ hơi … chậm tiến. Chiến tranh đă qua lâu lắm rồi đă hàng nửa thế kỷ ,bây giờ nhắc lại có ích ǵ, như hành động cứ moi măi vào vết thương tâm của cả một dân tộc.

         Viết bút kư chiến tranh,  là phản ánh lập trường chính trị một cách chủ quan, chỉ là một cách nh́n của một phía và chỉ soi rọi đến mơt nửa chân lư mà thôi.Đọc những trang sách viết về chiến tranh, chúng ta có thể rơ ràng mường tượng vị trí chính trị . Từ Phan Nhật Nam  đến Bảo Ninh, từ  Trần Hoài Thư  đến Trần Mạnh Hảo, .. thời điểm sáng tác có khác, dù hoàn cảnh , môi trường có khác , chiến tuyến có khác nhưng những gịng chữ viết của họ phần nào nói  lên được tâm cảm của người lính trong băo lốc chiến tranh…

         Nhưng, trên phương diện văn học sử, những tác phẩm như Dấu Binh Lửa , như Nỗi Buồn Chiến Tranh, .. chính là những ghi chép lại của tâm tư một thời, những ngày khốc liệt nhất của lịch sử. Khác với vai tṛ của một văn công tuyên truyền , họ mang cái lửa của những người tuổi trẻ sống trong một thời kỳ không thể có một quyết định nào khác hơn là cầm súng.Những người không thích chém giết mà vẫn phải lao ḿnh vào lửa đạn.

         Tôi đọc Phan Nhật Nam trong tâm cảm ấy. Dấu Binh Lửa,  Dọc Đường Số 1, Mùa hè Đỏ Lửa , là những bút kư  ghi lại một thời mà chúng ta đều gắng quên mà phải nhớ. Một thời kỳ mà những suy tư đă dằn vặt lên những “ con người “ biết nghĩ đến phát điên lên được. Thực tế lịch sử  đă tṛng tréo lên nhau hết mắc míu này đến liên hệ kia. Những thế lực ngoại quốc chi phối, những tâm cảm bức bối nhược tiểu, những con đường đi ít có ánh sáng mặt trời. Tuổi trẻ bị đẩy vào mê cung và quanh quẩn lồng lộn trong những chấn song giới hạn như trong một bẫy rập.

         H́nh như , bút kư chiến tranh Dấu Binh Lửa   đă gây nên rất nhiều phản ứng trong giới cầm bút. Nhà thơ Đỗ Quư Toàn đă cho rằng đây là một kiệt tác viết về chiến tranh. Nhà báo Chu Tử cũng phát biểu như  thế. Những ḍng chữ , viết bằng máu và mồ hôi của một chiến trận có

thực và những phẫn nộ có thực  đă   thuyết phục được người đọc.  Đến nỗi , những người cầm bút phía đối nghịch bên kia như Tô Hoài  và Nguyễn Tuân cũng phải nhận rằng quả thực Phan Nhật Nam đă viết tác phẩm của ḿnh bằng máu , nhưng là một loại máu bị nhiễm độc. Và , khi chấm dứt chiến tranh, Phan Nhật Nam đă nếm biết bao nhiêu đ̣n thù, với những ngày biệt giam dài dằng dặc.

         Dù ở bất cứ một nhăn quan chính trị nào,  ở những kết luận, đều chung một nhận định,  chữ viết của Dấu Binh Lửa, Mùa Hè Đỏ Lửa  là những ḍng chữ của văn chương mang nỗi niềm của tuổi trẻ một thời đại rất là đặc biệt Việt Nam.

         Trước khi là lính , Phan Nhật Nam  là một sinh viên sĩ quan trường Vơ Bị Đà Lạt. Tôi để ư thấy ông ít tôn sùng một thần tượng nào , nhưng khi nhắc về Trường Mẹ của ḿnh, ông đă viết với sự tôn trọng .  Hơn nữa , với cả một tâm t́nh đằm thắm mà ông đă có từ thuở hoa niên . Những người , mà ông gọi là thầy, là niên trưởng , hay niên đệ, trong văn chương ông, đều có nét chung mang nhân bản , của những mẫu người yêu đất nước và mong muốn ḥa b́nh dù phải bắt buộc cầm súng . Những lời ông ngỏ, như những tâm sự gửi đến , để chia sẻ:

         “…Tôi ở lính tám năm, năm nay 26 đi lính năm 18  suốt tám năm của một thời lớn lên tôi đem tặng hết cho quân đội, không phải  đến bây giờ tôi thất vọng chán nản v́ công danh không toại ư, cuộc sống bị ép buộc không đúng như mơ ước  nên cay cú hằn học với nhà binh. Không như vậy, tôi đi lính năm 18 tuổi vào học trường t́nh nguyện ra làm ông Quan một. Chẳng có ai lôi  kéo tôi vào trường ấy, tôi tự động hăng hái hănh diện để trở thành một Sinh Viên Sĩ Quan với ư nghĩ  đă chọn đúng cho ḿnh một hướng đi , một chỗ đứng dưới ánh mặt trời mọc. Tôi có những rung động thật thành thực khi đi trong rừngthông hương nhựa thông tỏa đặc cả một vùng đồi, sung sướng v́ thấy đă đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ mơ mộng và cứng rắn , một thế giới pha trộn những ước mơ lăng mạn hào hùng.. Chuyển quân trong sương đêm , trong mây mù, ánh lửa mục tiêu của một đêm đông, trong hốc núi hoang vắng, thế giới mạo hiểm giang hồ của Jack London phảng phất đâu đây..

Tôi say mê và thích thú với những khám phá mới mẻ đó. Nắng cao nguyên trong những ngày cuối năm vàng tươi rực rỡ, đứng ở đồi nh́n xuống hồ suối Vàng trong vắt yên lặng, người như muốn tan vỡ thành muôn ngàn mảnh nhỏ theo cơn gió bay chập chờn qua vùng đồi trùng điệp và tan đi trong nước hồ xanh ngắt…”

 

         Không phải  cảm giác và tâm tưởng ấy là của riêng tác giả Dấu Binh Lửa. Mà h́nh như của chung những chàng lính” sữa “ quân trường. Huấn nhục không làm vơi chất lăng mạn mà c̣n tạo thành một truyền thống để những cực nhọc thăng hoa thành những kỷ niệm đẹp một thời.

         Đà Lạt, phong cảnh hữu t́nh, người cũng đẹp và trời đất bốn mùa cũng có nét đẹp cách riêng.  Sống ở trong môi trường ấy, óc tưởng tượng đă phát triển để thấy được cái lồng lộng vô biên của cuộc nhân sinh. Thực tế cũng có nhiều trắc trở, ngày tháng rồi sẽ kéo dài những mệt mỏi , nhưng trong rực rỡ những hy vọng vẫn là những bản hoan ca của một tuổi trẻ thanh xuân. Không phải là những bài hát mị lính rẻ tiền kiểu “ anh tiên tuyến em hậu phương” mà là những tâm tư chất ngất hùng tráng của những câu thơ hào hùng thuở nào nhắc đến một thời trăng treo vó ngựa. Phan Nhật Nam viết về những ngày ở Trường Mẹ:

 

         “.. Phải nói thật những ngày ở lính đầu tiên của tôi đầy trong sáng và đẹp đẽ. Trong sáng như  giấc  mơ của số tuổi 19, giấc mơ mù mờ có cánh chim trắng bay chậm răi qua rừng thông….nhưng đời sống nhà binh không hẳn là vậy, nó c̣n có sĩ quan cán bộ, có nghi lễ, có đủ những phiền toái hỗn độn mà đời sống dân sự không ai nghĩ ra được… Nên khung trời đầy sương mù bí mật ngoài khung cửa sổ hiện ra như một thách thức đối với đời sống ḱm kẹp của tôi hiện tại. Đây cũng là một thời gian thật khủng hoảng, mỗi đêm nh́n về phía thành phố đầy ánh đèn tôi không ngủ được, tưởng như có một tiếng gọi của đời sống ở bên ngoài quân ngũ đang nhắc nhở thúc gịuc , một đời sống thực sự tôi không có. Từ khung cửa sổ nh́n xuống những dàn đồi im lặng chạy dài trong sương mù và đằng xa ánh đèn xanh của vườn Bích Câu ma quái diễm ảo, tôi thấy rơ trong tôi có một  nỗi cô đơn khủng khiếp hiện h́nh sừng sững. Những lúc ấy tôi thấy được con người thực của ḿnh, một gă trai trẻ viễn vông, thấy rơ những cười đùa ban ngày, những buổi học, bữa ăn tập thể không ảnh hưởng ǵ đến con người trong tôi.không thể có được một ư niệm về chuyên môn quân sự mà bằng tất cả mọi cách nhà trường cố nhét vào trong đầu óc.Những  Đội h́nh tác chiến, cung cách chỉ huy, chi tiết kỹ thuật về vũ khí trôi qua trí năo mơ hồ như một cơn gió nhẹ. Hai năm sống ở mái trường đó như một cơn gió phiếm du. Những giây phút thực nhất là phiên gác nửa đêm về sáng dưới ánh đèn pha của vọng gác kho đạn tôi khám phá được một thế giới của cây cỏ  đang thở , đang lớn lên, những giây phút khoảng năm giờ sáng, sau phiên gác nh́n xuống pḥng sĩ quan trực, người lính kèn im lặng đưa lên môi thổi bài kèn báo thức . Và giây phút thực nhất không ǵ hơn suốt ngày chủ nhật một ḿnh một ngựa chạy như bay vào hướng đồn Daksard . Con đường đỏ c̣n ướt sương đêm,  trời chưa tan hẳn  mù , ngựa phi như gió cuốn, ngựa đi vào trong một vùng mù đặc, rừng thông chuyển động ào ào, cả trời cao nguyên tan biến chập chờn theo vó ngựa.Kết quả sau hai năm  ăn nhờ chánh phủ tôi được biến thành ông quan Một ra trường đi binh chủng hung hăn nhất…”

 

         Vào lửa đạn, đi qua từ những chiến trường này đến trận chiến nọ, trải qua bao nhiêu thăng trầm binh nghiệp, bao nhiêu lần thương tích, bao nhiêu lần thấy cái lư tưởng thời xưa bị vầy đạp, vẫn thấy, sáng ngời những ngày tháng quân trường, vẫn thấy, niềm hănh  diện xuất thân từ ngôi Trường Mẹ vẫn chưa nhạt phai.

 

         "... Tôi ra trường năm 1963, thời gian chiến tranh bắt đầu nặng và hỗn loạn không phải chỉ thuần túy ở sự kiện chiến tranh nhưng đă bắt đầu gây mầm bùng nổ ở ḷng người. Lẽ tất nhiên là sĩ quan nhà nghề, xuất thân từ quân trường mà quyền hành của khóa đàn anh không phải chỉ để thi hành kỷ luật nhưng là một ám ảnh khủng khiếp cho khóa dưới. Chỉ  một cái quắc mắt của Nguyễn Xuân Phúc (khóa 16) khi bước lên bục gỗ, hai trăm người của khóa tôi co rúm tê liệt như con nai chết trước nhăn quan khủng khiếp của con hổ. Một  sinh viên sĩ quan khóa 19 v́ quá sợ niên trưởng nên dù trái lựu đạn đă bật kíp nhưng cũng không dám ném đi v́ chưa nhận được lệnh( trong bài học ném lựu đạn tất cả các động tác đều theo lệnh) nên hậu quả trái đạn nổ trên tay….

Tôi biến thành một người lính thực thụ, trận lớn , trận nhỏ, chiến dịch hai tháng , ba tháng, dài ngắn, từ Sài G̣n trở ra Bến Hải, tôi đi đủ. Những địa danh xa xôi bất kỳ một xó xỉnh hiểm hóc nào của miền Nam này tôi cũng có thể biết rơ một cách tường tận . Từ  những miền quá nổi tiếng như khe Sanh , Cồn Tiên đến những làng nhỏ từ cửa Việt đi ra  : Diêm hà Trung, Diêm Hà Nam, cái làng nhỏ cuối thung lũng sông Kim Sơn , làng Hà Tây, đèo ông Hổ đổ xuống Phù Củ ra Phù Ly, Phù Cát thẳng đến biển là núi Lồi, đầm Trà Ổ, xuống phía Nam là đầm Nước Ngọt. Lên đến Pleiku, trực thăng vận xuống phía Nam Biên giới Lào Việt đầu ngọn sông Ia-Drang…Đâu đâu tôi cũng đến. Năm thứ nhất , năm thứ hai, thứ ba tôi sống thoải mái, v́ đă đi đủ, nh́n đủ.Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở chiến cuộc; góp mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể , nhưng cốt yếu là không ở ngoài , không chạy trốn trong khi bạn bè những người cùng trang lứa đang tham dự đang ngă chết. Dù bên này hay bên kia , chết trong thù hận…

Những người đang đi t́m cái chết để biện giải cho đời sống….”

          Chỉ có người ở trong cuộc mới hiểu được nỗi nhọc nhằn của một cuộc chiến phi lư . Ngoài tiền tuyến hy sinh , trong khi hậu phương th́ bị phá nát bởi những tên vô trách nhiệm không một chút ư thức nào về dân tộc và quốc gia. Có những người trước khi vào lính là những sinh viên hay biểu t́nh tranh đấu nhưng khi gia nhập quân ngũ lại cảm thấy giận dữ khi máu xương và mồ hôi của ḿnh và đồng ngũ ḿnh bị phí phạm một cách cực kỳ vô ích. Cũng như, có những người lính, sau nhiệm vụ của ḿnh , đă cầm bút như một cách thế để nói lên nỗi niềm tâm sự của ḿnh.  Thú thực tôi cũng không tâm đắc mấy với những ngôn từ như nhà thơ lính , nhà văn lính.Ở một thời kỳ mà tất cả sinh lực, tất cả những tinh hoa của đất nước  đều dồn hết vào quân đội th́ chữ lính đi sau có phải là thừa thăi không ? Nhà văn , nhà thơ  là đủ rồi, hà tất c̣n phải thêm chữ lính làm ǵ? Đâu có phải đó là dấu mộc của tấm giấy chứng nhận tại ngũ để tŕnh cho cảnh sát đứng gác đường xét hỏi… thời chiến tranh, mọi người phải hoàn tất nhiệm vụ của ḿnh với đất nước , với xă hội ḿnh đang sống…

          Tôi nghĩ đến cái mộng ước của đại tá Trần Ngọc Huyến , chỉ huy trưởng trường Vơ Bị Đà Lạt một thời. Ông muốn h́nh thành một lớp quư tộc mặc quân phục với tiêu chuẩn văn vơ toàn tài. Từ bước đầu rèn luyện ở  quân trường, không phải chỉ là những kiến thức về quân sự về chuyên môn , mà c̣n cả những phương cách để học làm người nữa. Một mẫu người kiểu mẫu cho một thời đại.  Bằng mọi cách , với tất cả nỗ lực ông kiến tạo một tiêu chuẩn mẫu mực mới  cho phong cách và chân dung một sĩ quan hiện dịch. Tiếc là  thời gian đă không đủ để có một trắc nghiệm chính xác. Nhưng , từ những người con xuất thân từ Trường mẹ, họ đă không làm phụ ḷng những mộng ước mong mỏi trên.Địa linh th́ có nhân kiệt. Đỉnh Lâm Viên ṿi vọi cao  nhưng  không phải   là chẳng thể vượt qua.

          Bây giờ,  đọc những trang sách, lại thấy phảng phất đâu đây mùi nhựa thông buổi sáng hay mầu hoa qú vàng làm ngây ngất ḷng người.cái sương mù bây giờ ở xứ người có làm nhớ đến màn sương mù đặc của Phan Nhật Nam thuở trước ? ai làm người lính gác đêm, nh́n thành phố mờ tỏ ánh đèn có thấy xao xuyến nỗi nhớ mong nào đó? Kỷ niệm sẽ rất đẹp , khi lúc ta đang tuổi xuân , ḷng bừng bừng men rượu  của cuộc sống sắp đến. Đà Lạt, nơi  có những người lính alpha đỏ trên vai,  và những cô gái nữ sinh Bùi Thị Xuân , Couvent ,.. đầy e ấp. Ở đó có những mối t́nh đẹp nhưng cũng có những chia tay buồn bă. Hoa mimosa,  hoa anh đào, hoa qú  có một buổi nào nở rộ? Những người lính , lên đường mang giấc mộng của ḿnh đi đến chiến trường , nơi trăng treo vó ngựa, nơi  sinh tử mịt mù.? 

Và với Phan nhật Nam, trong câu chuyện kể hoài không đủ, viết ngàn chương thiếu một tờ,  biết đâu , về sau, những lớp con trẻ lớn lên  đă thấy được những cảnh ngộ của cha ông trong một thời lịch sử qúa nhiều phức tạp…

         Với tôi,  có một kỷ niệm nhỏ và một bài thơ. B́nh sinh tôi rất  yêu mến những người lính nhảy dù. Ở đó tôi nh́n thấy họ qua những sự hy sinh những gian khổ vô bờ và cả những chiến tích hiển hách. Tôi có nhiều đứa bạn , đă hănh diện v́ mầu nón đỏ trên đấu và ra đi rất sớm trong chiến trận. Những năm của  thập niên 80, khi Phan Nhật Nam c̣n  bị dập vùi trong lao ngục tôi giở cuốn sách tái bản ở hải ngoại “ Mùa hè Đỏ lửa” và tự nhiên nhớ lại một thời chinh chiến đă qua. Tôi viết một mạch  với cảm khái bừng bừng của một người sống lại những ngày dĩ văng:

Đọc Mùa Hè Đủ Lửa, nhớ  tới Phan Nhật Nam.

 

Mùa hạ gió bạt đồi Quảng Trị

Cát bay con chốt mịt mù trời

Trang sách máu loang ḍng bi kư

Ngôn ngữ tan tành miểng đạn rơi

Đếm thử bao nhiêu năm binh lửa

Bao nhiêu cái chết tựa tṛ chơi

Băo cát trăng treo rưng vó ngựa

Trường hành thảng thốt ánh sao khơi

Dựng một lá cờ trên cơi chết

Mặt trời phải mọc sáng hôm nay

Cổ thành thi gan  với nhật nguyệt

Nh́n lên bờ tường buốt ngón tay

Mùa hạ không b́nh yên An Lộc

Giàn hàng ngang đại đội xung phong

Da thịt nổi gai miền tàn khốc

Nhịp tim nhảy bước chiều mênh mông

Vào Xa Cam bắt tay thằng 8

Sương xuống hay là khói cơm chiều

Ngồi hố cá nhân chiều ảm đạm

chiều hoang cháy xém nỗi đ́u hiu

nón sắt c̣n đây đâu người lính

giầy trận bước lầy nẻo máu xương

địa ngục thiên đàng trời sẵn định

đỏ thẫm máu loang những tấc đường

mùa hạ nắng hờn chiều biên trấn

Charlie có phải pháo đang gào

Sườn đá lở lói núi tự vẫn

Bè bạn anh em ở chốn nào?

Một trăm ngày kéo dài chiến trận

Đứt hơi người chết trẻ như mơ

Đen tỏa khói un vào vô tận

 Sự sống như cành cây chết lhô

 Sau lưng C bốc lửa ngọn

 Xuống măi , xuống hoài ngút vực sâu

Đêm vỡ vụn những hồi chấn động

 Mặt trời , mặt trời ở chỗ nào?

Tân Cảnh , Đồi Gió , bờ Thạch Hăn

 Đất quằn quại hai tiếng Việt Nam

Cỏ lá ít hơn miểng bom đạn

 máu chảy sôi bờ ngực bàng hoàng

tuẫn quốc vong thân người vắng mặt

đêm nay gió chướng rủ nhau về

ḷng tạnh không sao có nước mắt

 bút mực nào thê thiết cơn mê

nh́n bạn hữu anh em trang sách

tưởng tháng ngày băo lửa chưa quên

vết seo cũ c̣n nguyên dấu rạch

da thịt nào trời đất ngả nghiêng

Ơi Phan Nhật Nam ḍng chữ viết

Đỏ hồng ngôn ngữ máu c̣n tươi

Đầy đọa ngục tù đâu làm chết

Màu xanh lịch sử vẫn tinh khôi.

 

         B́a thơ tôi viết vào tháng 5 năm 1989, khi ở hải ngoại đang trong những ngày tưởng nhớ về một thảm nạn lịch sử của dân tộc. Đến nay ,  gần hai chục năm , Phan Nhật Nam đă sang định cư tại Hoa kỳ   và vẫn tiếp tục công việc của một người lính  dù bây giờ  không c̣n gươm súng . Cuộc chiến đă tàn nhưng ảnh hưởng vẫn c̣n và vẫn là niềm đau xót từ một cuộc nội chiến  xen vào chiến tranh ủy nhiệm của các đại cường…

 

Nguyễn Mạnh Trinh