Đôi Điều Về

TỒN CHẤT

 

 

Mai Khắc Ứng

 

 

 

Đan thanh dấu cũ,

Mũ lọng triều xưa

Bút cự nho xông thẳng trường văn, ba ngh́n sĩ tử chịu bó tay, tên đỏ chói đứng đầu bảng hổ.

Cờ đại tướng trỏ ngang giáo vơ, trăm vạn hùng cừ đều khiếp tiếng, bể trong veo lặng ngắt tăm ḱnh.

Phá toang băi cỏ lập làng, chẳng quản chân bùn tay lấm,

Tát sạch đồng chua làm ruộng, khác nào giời chuyển đất vần.

Hoàn danh, hoàn phúc gồm hai, công đức rỡ ràng bốn cơi,

Danh tướng, danh thần là một, tiếng thơm sực nức ngàn thu.

 

Văn tế Nguyễn Công Trứ tại Truy Tư từ, làng Lạc Thiện, do Hoàng Giáp Tam Đăng, Phạm Văn Nghị (1805-1880) soạn. (Theo Lê Thước và Chu Trọng Huyến).

 

 

I.  THỜI CỤC

         

          Nguyễn Công Trứ ra đời vào ngày Mồng Một, tháng Mười Một, năm Mậu Tuất (1778), tại huyện lỵ Quỳnh Côi, phủ Thái B́nh, trấn Sơn Nam (nay là huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái B́nh).

          Cùng năm:

Nguyễn Nhạc xưng vua nhà Tây Sơn tại Quy Nhơn. Niên hiệu Thái Đức.

Nguyễn Phúc Ánh nhận cờ đại nguyên soái nhiếp chính quốc ở Gia Định.

Mậu Tuất, 360 năm trước đó (1418), Lê Lợi dựng cờ nghĩa trên đất Lam Sơn.

Những năm Mậu Tuất này xem ra có mối nợ đời, tương sinh, tương khắc, gây nên binh đao máu lửa ngót ba thế kỉ.

          Nguyễn Công Trừ, c̣n có tên gọi riêng ở nhà là Cũng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn. Người đời trân trọng thường gọi là Uy Viễn tướng công (tướng công làng Uy Viễn). Làng Uy Viễn nay thuộc xă Xuân Giang, là lân bang với làng Tiên Điền, xă Xuân Tiên, huyện Nghi Xuân, quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du.

Hà Tĩnh là quê cha: Ông Nguyễn Công Tấn.

Hà Tây – Thăng Long là quê mẹ: Bà Nguyễn Thị Phan.

Thái B́nh là quê sinh thành.

          Nguyễn Công Trứ là sự kết tinh của ba vùng văn hóa. Và cả ba vùng văn hóa ấy, đều đă chịu tác động mạnh mẽ của các biến cố lịch sử ngót bốn thế kỉ (1407-1802). Thái độ người đương thời đối với mỗi thế lực xuất phát từ nhu cầu xă hội và nhận thức thực tiễn. Nguyễn Công Trứ như là một hệ quả của chuỗi biến động lịch sử này.

          Họ Nguyễn, thất thế ngay từ những ngày đầu dựng cờ pḥ Lê (1545), thua trước trong cuộc nội chiến tương tàn đẫm máu: Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn (1774), lại chính là người giành toàn thắng cuối cùng (1802). Vận nước và ḷng người. Cả hai có bóng dáng trong kết cục này.

Nguyễn Công Trứ không thuộc lớp khai quốc công thần vương triều Nguyễn Gia Miêu, mà trước hết là một sĩ phu Bắc Hà như đại thi hào Nguyễn Du, và nhiều người khác, trung thành với triều Lê, tự nguyện phụng sự triều Nguyễn, để rồi trở thành một đại thần mẫn cán của vương triều này trên  nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, nội trị, quốc pḥng.

         145 năm đă qua, kể từ ngày trái tim Hy Văn ngừng đập (14.11.Mậu Ngọ, 1858), tuy trứ tác về ông đă thừa, mà hậu thế vẫn c̣n người áy náy chưa yên. Tôi thuộc trong số họ.

Thử t́m hiểu chuỗi biến cố xă hội, ngót bốn thế kỉ (XV-XVIII), với các thế lực Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, qua thái độ người đương thời, để nhận định về lẽ đúng sai của Nguyễn Công Trứ trong bối cảnh lịch sử cụ thể, cũng là một lối đi thử nghiệm. Có thể không đúng với số đông hiện thời, nhưng đă đến lúc mỗi suy nghĩ cá nhân, riêng tư cũng nên được phép bộc bạch. Có thế mới thành xă hội của những con người.

 

HỌ LÊ

 

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân…”

 

          Đầu thế kỉ XV, lấy cớ Hồ Quư Ly bất nghĩa, quân Minh tràn sang giày xéo đất nước ta. Lê Lợi cùng với anh tài tuấn kiệt cả nước đứng lên đuổi quân tàn bạo. 10 năm (1418-1427) gian nguy, vào sinh ra tử, nghĩa quân Lam Sơn, mới viết bản tuyên ngôn bất hủ: B́nh Ngô Đại Cáo.

          Nhưng vinh danh chưa trọn, Lê Thái Tổ đă vội giết oan hai vị khai quốc công thần là Trần Nguyên Hăn, Phạm Văn Xảo, chỉ v́ ḷng đa nghi, vị kỷ. Niềm tin của trăm họ về tính đại nghĩa bị tổn thương. Tiếp đó, Nguyễn Trăi, linh hồn của cuộc kháng chiến mười năm, bị “chu di tam tộc” (1442), chỉ v́ cớ Lê Thái Tông, vô đạo, chết đường. Triều Lê bị bọn gian hùng tay trong nối giáo cho giặc thao túng, lũng đoạn trả thù những người có công tổ chức kháng chiến.

          Lê Thánh Tông(1460-1497) cố gắng khôi phục uy tín vương triều, cũng chỉ đủ làm vinh quang 38 năm Quang Thuận và Hồng Đức mà thôi.

T́nh dân với nhà Lê mỗi ngày một vợi. Sau 7 năm Cảnh Thống ôn ḥa của Lê Hiến Tông(1497-1504), điều ǵ đến đă đến. Lê Túc tông (1504) chết yểu. Lê Uy Mục(1505-1509) bạo ngược tối tăm, tác oai, tác quái, đến nỗi sứ giả nước ngoài phải gọi là “quỷ vương”. Đó là cơ hội cho ngư phủ Mạc Đăng Dung nhảy lên hàng tướng lĩnh, rồi giành ngôi vua. Sự xâu xé đầu thế kỉ XVI như là một tất yếu, khi nhà Lê đă để mất ḷng tin và chấm hết vai tṛ đứng đầu nhà nước.

Nhận thấy họ Mạc không đủ tư cách ngồi trên ngai vàng và nhớ đến công cứu tinh dân tộc một thời của nhà Lê (Thái Tổ, Thánh Tông), nhiều thế lực nổi lên chống Mạc. Vậy là cờ pḥ Lê được phất lên. Nhưng nhà Lê thực sự đă bước vào cơi suy, không c̣n anh tài nối nghiệp. Trung hưng và tồn tại chỉ là con tướng trên bàn cờ thế lực mà thôi. Nội chiến Nam – Bắc triều (1533- 1592), giữa Lê với Mạc, thực chất là giữa Nguyễn rồi Tŕnh với Mạc. Rút cuộc, họ Tŕnh đă thực hiện được lời khuyên của Trạng Tŕnh – Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Giữa chùa thờ Phật th́ ăn oản”, xây dựng mô h́nh đế chế tương hợp: vua Lê – chúa Trịnh. Một đối sách thỏa măn hai bên tạo nên thế chân  vạc Lê – Trịnh – Mạc, để cả ba có những khoảnh khắc tồn tại.

Người ta thờ vua Lê với nghi thức Nho Giáo “trung quân ái quốc”. Người ta pḥ chúa Trịnh để tiến thân và để vinh thân. Sự liên minh bên ngoài và mâu thuẫn bên trong âm ỉ nhiều thập kỉ bởi tương quan danh nghĩa đó. Vua Lê đôi khi muốn loại bỏ chúa Trịnh nhưng non mưu và kém thế. Chúa Trịnh trừ khử vua Lê cha hoặc anh rồi th́ phải đặt vua Lê con hay em vào chỗ trống. Cứ thế mà nhập nhằng. Sĩ phu, quan chức, dân chúng theo gió để trở chiều sao cho được ḷng cả hai. Trung với vua Lê phải pḥ chúa Trịnh. Đứng với chúa Trịnh lại phải biết giữ lễ với vua Lê. Họ Nguyễn bị Trịnh hất ra khỏi thế liên minh pḥ Lê, buộc ḷng chạy vào Thuận Hóa, âm thầm lớn lên với xứ Đàng Trong. Họ Mạc bị đuổi ra khỏi Đông Đô chạy lên Cao Bằng dựa vào ngoại bang để cầm hơi tàn mà tồn tại.

          Lê - Trịnh - Mạc – Nguyễn là 4 thế lực thù địch “bất cộng đái thiên”. Nhưng lại v́ nhau mà sinh và cũng từ nhau mà diệt. Không có Mạc – Nguyễn, ngôi vua Lê khó toàn. Không có Lê – Mạc, Nguyễn hẳn không tồn tại. Không có Trịnh – Mạc, chưa chắc họ Nguyễn đă làm nên Đàng Trong. Mạc yếu thế, Trịnh vừa đánh vừa lo phía Nam. Nguyễn sa cơ, Trịnh vừa đánh vừa pḥng mặt Bắc. Sự tồn tại trong tương quan tranh chấp ngôi thứ đều có mục đích chủ yếu loại bỏ đối phương, nhưng về mặt nào đó lại nhờ có đối phương mà tạo nên thế đứng. Mạc bị loại. Họ Hồ Tây Sơn dương cờ “diệt quốc phó báo hoàng ân” thế vào chỗ trống. Nội chiến lấy cớ pḥ Lê giữa Mạc – Trịnh – Nguyễn chuyển thành Trịnh –  Hồ Tây Sơn – Nguyễn.

 

HỌ NGUYỄN GIA MIÊU

 

          Nguyễn Bặc, thuộc tướng của Đinh Bộ Lĩnh tham gia dẹp loạn “Thập nhị sứ quân” năm Tân Hợi (951), lập nên triều Đinh Tiên Hoàng, là sơ tổ họ Nguyễn Gia Miêu. Lê Hoàn giết Nguyễn Bặc, Đinh Điền để giành ngôi vua của Vệ vương Đinh Tuệ th́ con ông ta giết nhau để cuối cùng Lê Long Đỉnh mới trở thành ngọa triều, chấm dứt nhà Tiền Lê. Nguyễn Bặc chết v́ trung nghĩa th́ Nguyễn Đê, con trai của ông trở thành khai quốc công thần triều Lư Công Uẩn. Trời đất có luật riêng, người trần ít ai để ư. Trải qua nhiều thế kỉ, họ Nguyễn trở thành vọng tộc dưới thời Lư, Trần, Lê. Trừng quốc công Nguyễn Hoằng Dụ, tuy đă hết ḿnh vẫn không thể vực Lê Tương Dực đứng lên cho chững chạc được, bởi bản tâm Lê Oanh đă tha hóa quá rồi. Những người có tâm, có tài, có công lớn như Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hăn, Nguyễn Trăi… bị giết oan, nhà Lê vượng lên sao được. Vận nhà Lê từ cổ thụ đă thoái hóa thành cây dây leo, không thể khác. Nguyễn Kim t́m được Lê Duy Ninh từ tay Trịnh Duy Tuấn, Lê Lan, lập nên làm vua Lê Trang Tông (1533) chưa được bao lâu th́ bị nạn, con rể Trịnh Kiểm giành được binh quyền, rồi giết em vợ là Nguyễn Uông, (con trai trưởng của Nguyễn Kim), Nguyễn Hoàng sa cơ phải t́m cách thoát thân. Công lao của Nguyễn Kim, cái chết của Nguyễn Uông và sự thất thế của Nguyễn Hoàng đă gieo niềm trắc ẩn vào ḷng người. Họ Nguyễn nhận được nhiều sự chia sẻ và cảm t́nh từ nỗi bất hạnh đó. Công lao và sự tận trung của Nguyễn Kim càng rơ th́ sự thua thiệt của Nguyễn Hoàng càng được nhiều người nghĩ đến. Nhờ vậy, trong t́nh cảnh sự sống quá mong manh, Nguyễn Hoàng mới được Trạng Tŕnh – Nguyễn Bỉnh Khiêm, mở cho lối thoát theo ư dân, ư trời: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.

Vào Ái Tử (Quảng Trị), Nguyễn Hoàng sa cơ, thất thế, phải đứng giữa vùng cát trắng, nắng hạn, nghèo đói nhất xứ Đàng Trong thuở bấy giờ. Gặp phải hoạn nạn lại thêm bản tâm nhân từ, Nguyễn Hoàng được dân chúng tin yêu, mang đến tặng bảy ṿ nước ngọt. Vậy là ông đă được DÂN. Cái đầu tiên, Nguyễn Hoàng có, để bảo toàn sinh mệnh mà tồn tại là thế. Nhân và Dân là điểm xuất phát, Nguyễn Hoàng đă biết chăm lo. Nhờ vậy, họ Nguyễn đă lớn lên với Thuận Hóa, rồi lớn lên với Quảng Nam, để cùng Thuận – Quảng làm nên cả xứ Đàng Trong – Nam Hà. Kẻ thù của ông, lần lượt bật ra khỏi vùng “Ô châu ác địa”. Họ Nguyễn rảnh tay dốc sức, dốc ḷng xây dựng đất đứng chân. Mở nước về phương Nam trong vận hạn này.

 

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”

 

          Nguyễn Trăi xướng lên, Nguyễn Hoàng và hậu duệ của ông noi theo thực hiện: 12 năm với cương vị trấn thủ Thuận Hóa và 43 năm với cương vị Tổng trấn Thuận – Quảng, Nguyễn Hoàng không v́ thù riêng với Trịnh Kiểm mà v́ nghĩa lớn pḥ Lê, đă góp phần không nhỏ giúp Trịnh đuổi Mạc ra khỏi Đông Đô (1592). Đó cũng là sách lược phải đối phó, để sống c̣n. Bởi không thể khác.

          Trịnh Tùng vô đạo, bất lương, Nguyễn Hoàng buộc phải bỏ Thăng Long về Thuận – Quảng (1600), nổ lực mở mang xứ Đàng Trong. Nam -  Bắc phân tranh từng bước được nhen nhóm. Chùa Thiên Mụ (1601), Thành trấn Quảng Nam (1602), phủ Phú Yên (1611)… ra đời trước tầm nh́n và tấm ḷng của ông.

Tháng 6 năm Quư Sửu (1613), Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự thái úy Đoan Quốc Công  Nguyễn Hoàng (chức tước vua Lê Thế Tông phong) tạ thế, thọ 89 tuổi. Năm Gia Long thứ 5 truy tôn là: Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung Ư Cẩn Nghĩa Đạt Lư Hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ Hoàng đế. Miếu hiệu là Thái Tổ. Người đời thường trân trọng gọi là chúa Tiên.

          Những người con trước của Nguyễn Hoàng hoặc đă chết trong chiến tranh chống Mạc, hoặc phải làm con tin ở Đàng Ngoài, nên Nguyễn Phúc Nguyên, 51 tuổi là con trai thứ 6 được giao quyền thừa kế.

 

“Ta với các ông cùng nhau cam khổ đă lâu, muốn dựng nên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng ḷng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”.

                                                                                                       (Đại Nam thực lục, I/44)

 

          Trước đó, Nguyễn Phúc Nguyên đă một lần đánh đuổi tàu nước ngoài xâm nhập trái phép vùng biển cửa Việt và từng là Trấn thủ Quảng Nam. Trở thành tổng trấn, với tri thức, tính năng động và tầm nh́n biển cả, vị trấn thủ này đă biết khai thác cửa biển Đại Chiêm, xây dựng Hội An thành đô thị biển, mở rộng giao lưu buôn bán với nước ngoài. Tất cả những điều như thế đă giúp ông bỏ Thủ phủ Dinh Cát, đang ở mức doanh trại để xây dựng Thủ phủ Phước Yên mang đầy đủ dáng dấp đô thị. Đi dọc phố cổ Hội An, hôm nay, vắng ông, tôi thầm nghĩ ta thích “ăn cháo” mà quên “nhớ nguồn”.

Năm 1623, Trịnh Tùng đau nặng, Trịnh Tráng chuẩn bị nối ngôi, con trai thứ hai là Trịnh Xuân nổi loạn. Nội t́nh họ Trịnh suy yếu, rối ren, có thể Bắc tiến dẹp Trịnh, giành lại thế trực tiếp pḥ Lê. Nhưng Nguyễn Phúc Nguyên đắn đo: “Tùng không biết có vua, Xuân không biết có cha, đạo trời báo ứng… (nhưng) đánh người trong lúc có tang là bất nhân, thừa lúc người lâm nguy là bất vũ”.

         Vả lại, h́nh như chỗ đứng và tầm nh́n Hội An, Dinh Cát, mỗi nơi một khác. Trước Hội An là biển rộng. Văn minh nhân loại theo các dạng thương thuyền đến “tiếp thị”, quan dân sở tại, không học theo, không cố t́nh tiếp đón cũng vẫn phải nh́n. Tư duy cuộc sống trong mỗi con người mặc nhiên mà biến đổi.

          Giữa Dinh Cát là hoang mạc. Trong Dinh Cát là đầm phá cạn. Thuyền tam bản đủ chuyên chở mọi nhu cầu. Cuộc sống tự sản, tự tiêu đắp đổi quanh năm tưởng là măn nguyện. Sự chật hẹp và chiến tranh lại thường trực trong nếp nghĩ hàng ngày che khuất tầm nh́n là điều dễ hiểu. Từ Hội An ra (Quư Sửu, 1613), c̣n nhớ đại dương, Nguyễn Phúc Nguyên, hẳn nhiều trăn trở, bỏ Thủ phủ doanh trại, chuyển vào xây dựng Thủ phủ đô thị trên đất Phước Yên. Thuận – Quảng vượng lên theo tầm tư duy biển cả. Bởi vậy, tháng 10 năm Kỷ Tỵ, 1629, Trịnh Tráng lại định xua quân vào đánh Nguyễn, nhưng nhiều cận thần can ngăn: “Nay phương nam trên dưới ḥa thuận, nước giàu binh mạnh, mà ta th́ hàng năm đói kém, quân nhu không đủ”. Trịnh Tráng đành tạm ngừng.

Thế lực Trịnh từ đèo Ngang trở ra giàu mạnh gấp trăm lần quân dân Thuận Quảng. Trịnh Tráng dù rất hung hăng vẫn không làm ǵ được. Điều này xuất phát từ nhiều lẽ, trước hết phải kể đến ḷng dân, trong đó có một số sĩ phu Bắc Hà, đă dành cảm t́nh cho họ Nguyễn. Chiến tranh, chỗ đứng hướng nội, làm cạn con đường giao thương. Năm Ất Hợi, 1635, Nguyễn Phúc Nguyên tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi. Người đời trân trọng từng gọi ông là chúa Săi. Nguyễn Phúc Kỳ, con trai trưởng của Nguyễn Phúc Nguyên mất trước đó 5 năm, Nguyễn Phúc Lan, 35 tuổi, con trai thứ hai được chư tướng tôn lên “làm Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm tổng b́nh chương quân quốc trọng sự thái bảo Nhân quận công”, thường gọi là chúa Thượng. Ông là người khai sinh ra thủ phủ Kim Long (1636-1687). Từ đó, tầm nh́n Hội An dần dần bị che khuất. Sông Hương êm đềm ru và ḷng người êm đềm măn nguyện.

          Tháng Giêng năm Mậu Tư, 1648, Trịnh Tráng dốc lực lượng lớn vào đánh họ Nguyễn. Ba vạn tù binh Trịnh, được chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan tha chết, cho vào lập nghiệp ở bổn phủ Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên.

“Hiện nay từ miền Thăng, Điện, trở vào Nam… dân cư thưa thớt, nếu đem chúng an tháp vào đất ấy, cấp cho canh ngưu điền khí, chia ra từng hộ, từng xóm, tính nhân khẩu cấp cho lương ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thời trong khoảng mấy năm, thuế má thu được có thể đủ giúp quốc dụng, và sau hai mươi năm, sinh sản ngày nhiều, có thể thêm vào quân số, có ǵ mà lo về sau”.

          Nguyễn Hoàng mở đất Phú Yên (1611), Nguyễn Phúc Lan đưa tù, hàng binh vào Nam, Ngăi, B́nh, Phú (1648), như là những gợi ư mở nước về phương nam. Nguyễn Phúc Tần lập phủ Thái Ninh (1653), về sau đổi là Diên Khánh (Khánh Ḥa ngày nay). Dẫu biết Trịnh Tạc đang dốc toàn lực đánh ḿnh, cần phải chống đỡ, nhưng “nam tiến” không chỉ là xu thế mà c̣n là sứ mạng cao cả đă đặt vào vai họ Nguyễn, khi nhiều nước lân bang cũng đang ḍm ngó miền đất màu mỡ mà vương quốc Phù Nam bỏ lại.

          Bởi vậy, khi quân Nguyễn đă chiếm xong các huyện phía nam sông Lam (Hà Tĩnh ngày nay), họ có thể thừa thắng, đánh chiếm Đông Đô bởi toàn dân đă chán ghét họ Trịnh đến tột cùng, lại có một số sĩ phu, tướng lĩnh Bắc Hà làm nội ứng, hẹn phối hợp hành động. Nhưng họ Nguyễn vẫn dừng lại, với chủ trương giữ yên mặt bắc, tiến nhanh vào nam. Năm 1658, Nguyễn Phúc Tần bỏ qua Ninh Thuận, B́nh Thuận, vội vă nhảy vào Đồng Nai – Bà Rịa. Để 38 năm sau, Nguyễn Phúc Chu mới tổ chức quản lư vùng này. Chỉ thế thôi, cũng đủ rơ tính khẩn trương mở nước thời bấy giờ. Tiếp đó, năm 1698 Nguyễn Hữu Cảnh được Nguyễn Phúc Chu cử vào kinh lư Đông Phố, lập nên dinh Trấn Biên (tỉnh Đồng Nai ngày nay), dinh Phiên Trấn (tức thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Nhận Nguyễn Hữu Cảnh mà loại Nguyễn Phúc Chu trên đất này, là ta chưa thấu hiểu nội t́nh và tôn ti thuở đó.

          Năm Đinh Sửu, 1757 Nguyễn Phúc Hoạt cử Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du vào hoạch định biên giới, đă lập nên Sa Đéc (Đồng Tháp), Tân Châu, Châu Đốc (An Giang).

Năm Tân Măo, 1771, Trịnh Quốc Anh xua quân Xiêm (Thái Lan) sang xâm chiếm Hà Tiên. Họ Nguyễn tập trung binh lực để giành lại và dồn sức để bảo vệ biên cương phía nam, th́ cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn bùng nổ. Lực lượng họ Nguyễn bị căng ra hai đầu, bắc (sông Gianh), nam (Hà Tiên – Châu Đốc), không kịp trở tay đối phó. Năm Giáp Ngọ - 1774, nhận biết họ Nguyễn gặp khó khăn phải đối phó với thù trong giắc ngoài như thế, Trịnh Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc xua quân vào chiếm Phú Xuân, nhanh chóng liên minh với anh em Tây Sơn diệt Nguyễn. Tâm địa này khác xa Nguyễn Phúc Nguyên 121 năm trước đó.

          Như vậy là từ sự suy yếu của nhà Lê để nảy sinh ra nội chiến Lê – Mạc ở miền Bắc, loang dần vào miền Trung với nội chiến Trịnh – Nguyễn, rồi loang dần vào miền nam với Tây Sơn – Nguyễn. Đất nước h́nh thành các thế lực đối lập sát phạt nhau. Trớ trêu của lịch sử là anh em Tây Sơn vốn có tổ tiên từ bên ngoài sông Lam, vượt sông theo vào với họ Nguyễn (bởi trong chiến tranh, quân Nguyễn chưa một lần tiến chiếm Hưng Nguyên), giả bộ giương cao ngọn cờ “diệt quốc phó (Trương Phúc Loan), báo hoàng ân”, để t́m sự ủng hộ của dân chúng, rồi thẳng tay đánh Nguyễn. Nguyễn chới với khó toàn, chạy vào Đồng Nai – Gia Định. 28 năm (1744-1802), từ một cậu bé 13 tuổi, tứ cố vô thân, Nguyễn Phúc Ánh, lại được dân (không chỉ phú hộ) che chở mà lớn lên, trở thành người chiến thắng. Tây Sơn diệt Lê – Trịnh xóa vai tuồng nhà Lê, vô h́nh trung dọn đường cho họ Nguyễn Gia Miêu thiết lập vương triều không bị vướng vào tội bội phản. Như vậy, chính Tây Sơn lại là người “trải chiếu” để Nguyễn Phúc Ánh bước lên ngai vàng. Điều phân vân, đắn đo cuối cùng của Nguyễn Phúc Ánh đă được Đặng Đức Siêu và Trần Văn Tạc lượng giải phân minh như sau:

          “Từ khi vua Lê (bị Tây Sơn đánh) chạy sang nước Thanh, đi không thấy trở lại, đất Bắc Hà đă lọt vào Tây Sơn rồi. Huống chi tự khi quân nhà vua lấy lại đô cũ tới nay, những tôi dân nhà Lê không một người nào ứng nghĩa để đánh giặc, nhà Lê không dấy lại được đă có thể biết rơ rồi. Nay ta diệt được Tây Sơn, chiếm lại đất đai, đó là ta lấy ở giặc Tây Sơn chứ không phải lấy ở nhà Lê”.

 

           Thái độ người đương thời là thước đo đúng sai của mỗi phía và đă đưa mỗi phía vào vị trí lịch sử đích thực của ḿnh.

Trước công luận, Nguyễn Phúc Ánh phạm mấy sai lầm làm mất long dân và để lại nhiều tai tiếng xấu.

           Một là vội vàng giết Đỗ Thành Nhân, thủ lĩnh quân Đông Sơn, đă từng đứng về phía ḿnh, như một ân nhân, cùng đánh lại quân Tây Sơn. V́ thế, quân cần vương của Nguyễn Phúc Ánh suưt rơi vào nguy cơ tan ră.

Hai là làm mất thế tự chủ, tự cường, khi gọi quân Xiêm về để mang tội cơng rắn cắn gà nhà, làm một số người xa lánh.

           Ba là dựa vào một vị linh mục nước ngoài để cầu viện nước Pháp, suưt nữa th́ làm mất chủ quyền một vài hải đảo và hải cảng của Tổ quốc. Những người không tôn giáo hoặc tôn giáo khác quay lưng về phía Nguyễn.

          Nhưng rất may là đă có quá khứ gắn bó mật thiết trong công cuộc khai phá xứ Đàng Trong. Ái Tử, Trà Bát, Dinh Cát, Phước Yên, Kim Long, Phú Xuân, Bác Vọng, không chỉ là những địa danh lưu dấu một thời mà c̣n là gạch nối gắn bó mật thiết với Phú Yên, Khánh Ḥa, Ninh Thuận, B́nh Thuận, Đồng Nai, Vũng Tàu – Bà Rịa, Gia Định, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Kiên Giang… trong quá tŕnh phát triển. Họ Nguyễn với xứ Đàng Trong là cặp song sinh lịch sử. Nam Bộ cứu Nguyễn Phúc Ánh lúc lâm nạn là nghĩ đến lẽ sinh thành. Như “ăn quả nhớ người trồng cây” vậy. Người có tâm, có trí, làm như thế là chuyện mặc nhiên. Vả lại, Nam Bộ của Lục Vân Tiên, đời nào cũng giàu nghĩa khí. Con cháu anh Hai gặp nạn nỡ ḷng nào làm ngơ. Và, không chỉ người dân Nam Bộ sở tại thuở đó mà trong sự lựa chọn tự nhiên, người Bắc Bộ như nhóm Nguyễn Kim Phẩm, ở Sơn Nam, nhóm Đặng Trần Thường ở Thăng Long… cũng lũ lượt vượt biển vào nam ứng nghĩa. Càng về sau càng nhiều, trong đó phải kể đến các tướng lănh giỏi của Tây Sơn. Chẳng ai thúc ép, vận động, chẳng ai mua chuộc dỗ dành.

Trong nội chiến vương triều đôi bên chạy qua hàng ngũ của nhau là lẽ thường t́nh. Nhưng hàng trăm tướng lĩnh, đại đô đốc, đô đốc, chưởng cơ Tây Sơn (trong số đó có cả con nuôi của Nguyễn Huệ) lần lượt chạy sang phía Nguyễn Gia Miêu không mấy ai quay trở lại, cũng lại là điều mà người đương thời đặt lên bàn cân so sánh. Chu Văn Tiếp, Tập Đ́nh, Nguyễn Huỳnh Đức, Đoàn Văn Cát, Vũ Châu, Trần Văn Tạc, Nguyễn Hữu Thuận, Lê Chất,… phần nhiều về sau đều là công thần của vương triều Nguyễn Gia Miêu.

Vậy là từ nội chiến các thế lực Lê, Mạc, Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn tự làm nên sự khen, chê, đồng t́nh, không đồng t́nh của các tầng lớp sĩ phu và dân chúng. Kết cục lịch sử thế kỉ XVIII đă tŕnh ra rằng: ai được ḷng dân th́ người đó chiến thắng.

 

HỌ TRỊNH

 

          Năm Quư Tỵ, 1532, Nguyễn Kim, con trai của Nguyễn Hoằng Dụ, t́m được Lê Duy Ninh từ tay Trịnh Duy Tuấn, lập lên làm vua Lê Trang Tông, dựng cờ pḥ Lê trên đất Thanh Hóa.

          Năm Ất Tỵ, 1545, Nguyễn Kim trên đường tiến quân ra Bắc đánh Mạc, đến huyện Yên Mô (Ninh B́nh), th́ bị chết đột ngột. Hữu tướng Trịnh Kiểm, con rể của Nguyễn Kim, nắm giữ binh quyền pḥ Lê, không tiến quân mà quay trở về t́m cớ giết em ruột vợ ḿnh là Tả tướng Nguyễn Uông, con trai trưởng của Nguyễn Kim. Cái gọi là hàng tướng Dương Chấp Nhất đầu độc Nguyễn Kim cần được minh định lại.

Trịnh Kiểm có lẽ thuộc phái Trịnh Tuy, người đă từng đánh nhau bất phân thắng bại với Nguyễn Hoằng Dụ dưới thời vua Lê Chiêu Tông (1516-1527). Hôn nhân giữa các bên trong bối cảnh tranh chấp địa vị thống trị, nên được coi là sách lược. Nguyễn Kim chết ở đâu, thời điểm nào để giành được binh quyền, nơi và khi không có mặt Tả tướng Nguyễn Uông (cấp cao hơn), cũng cần được nghĩ đến. Bởi nếu có mặt Tả tướng th́ Hữu tướng chưa đến lượt được trao quyền!

          Dư luận đương thời, có người coi đó là mưu giành quyền pḥ Lê của họ Trịnh.

          Năm Canh Ngọ, 1570, Trịnh Kiểm chết, trao quyền cho con cả là Trịnh Cối, nhưng Trịnh Tùng con thứ hai của Trịnh Kiểm, giành quyền thừa kế, đă đuổi anh ruột chạy sang chết bên phía Mạc. Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông, con trai trưởng của Nguyễn Kim, đồng thời ép Nguyễn Hoàng bật ra khỏi thế pḥ Lê, với cách làm này ông là người gieo quả báo đầu tiên cho chính ḍng họ ḿnh. Từ đó về sau tai họa dài dài liên tiếp xảy ra trong các thế hệ họ Trịnh.

          Nhờ danh nghĩa pḥ Lê đang hợp thời, được nhiều người hưởng ứng, lại có Nguyễn Hoàng không chỉ giữ yên phía nam mà c̣n hỗ trợ binh lương tích cực, Trịnh Tùng mới diệt được Mạc Hậu Hợp, giành lại Đông Đô (1592). Nhưng v́ mang trọng tội bất đễ (đuổi anh), bất trung (giết vua Lê Anh Tông và vua Lê Kính Tông), nên cuối cùng ông ta lại bị Trịnh Xuân, con trai của chính ḿnh đuổi phải chạy trốn rồi chết thảm khốc dọc đường trong vụ nội loạn năm Quư Hợi (1623).

Họ Trịnh tự quyền xưng vương, lấn át vua Lê, tác oai, tác quái, thế lực mỗi ngày một mạnh, người sợ th́ nhiều, nhưng người tin mà trung thành lại ít. Đến như Trịnh Toàn (Ninh) là em ruột Trịnh Tạc, đang xông xáo tả xung hữu đột trên mặt trận Nghệ An chống quân Nguyễn lại bị anh ruột nghi ngờ, gọi về rồi tống giam vào ngục chết. Trịnh Sâm, nhân họ Nguyễn bị khó khăn bởi Trương Phúc Loan tham tàn và bởi anh em Nguyễn Nhạc thoán đoạt, xua quân vào cướp phá Phú Xuân (1774). Đứng về mặt đối ngoại mà xét tất cả những sự biến đổi gây khó khăn, tổn thất cho họ Nguyễn lúc đó, là tiền đề giúp quân xâm lược lấn chiếm đất đai của Tổ quốc ḿnh. Chí ít cũng gây nên tai họa bỏ mất thời cơ của công cuộc đấu tranh mở nước lúc bấy giờ. So với tính nhân nghĩa của Nguyễn Phúc Nguyên 121 năm trước đó, khi Trịnh Tùng bị con ḿnh là Trịnh Xuân đuổi ra khỏi Thăng Long th́ Trịnh Sâm quả là người bất nhân, bất nghĩa. Nhưng luật vay trả cũng không phải chờ đợi lâu. Hoàng Ngũ Phúc chết đột ngột. Đặng Thị Huệ lũng đoạn, thao túng. Nạn kiêu binh nổi lên. Trịnh Cán chết yểu. Trịnh Khải giành được quyền từ tay em nhưng khi sa cơ, không c̣n người cứu. Trịnh Bồng, mất tích (1788). Họ Trịnh kết thúc không có hậu, chẳng c̣n ǵ để lại giữa thế gian.

Gieo gió th́ gặt băo. Người xưa nói vậy không sai.

 

Mai Khắc Ứng


 

HỌ MẠC

 

“Mạc Đăng Dung đă làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đă làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cơi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm một ông vua mà không giữ được danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói ḿnh lại, đi đến quỳ lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quư cho một thân ḿnh và một nhà ḿnh, ấy là một người không biết liêm sĩ.

Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người, là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục?”

Lệ Thần – Trần Trọng Kim, đă nhận xét như thế trong Việt Nam sử lược, thiết tưởng, đă quá đủ. Chẳng cần phải nói ǵ thêm. Dựa vào ngoại bang, họ Mạc tồn tại được 65 năm đă là quá lắm.

 

HỌ HỒ/NGUYỄN TÂY SƠN

 

“Cách mạng Tây Sơn” là thuật ngữ đầu tiên, nếu tôi không nhầm, là do giáo sư sử học Văn Tân sáng tạo ra với công tŕnh nghiên cứu cùng tên, tâm đắc nhất của ông. Theo mẫu đó, ngót nửa thế kỉ qua, nhiều người đă viết về sự kiện lịch sử này. Hầu hết đều côi đây là cuộc khởi nghĩa nông dân điển h́nh nhất, triệt để nhất trong lịch sử nước ta. Có một thời, nếu trật đường ray, sẽ trât đường ray măi măi. Trước hết nói về những người khởi sự. Đó là ba anh em trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ con ông bà Hồ Phi Phúc ở làng Phú Lạc (nay thuộc xă B́nh Thành) và Kiên Mỹ (nay thuộc thị trấn Phú Phong), huyện Tây Sơn, tỉnh B́nh Định. Cha họ Hồ, con họ Nguyễn, mới nghe đă cảm thấy bất ổn rồi. Phú Lạc là đất sinh cơ. Kiên Mỹ là nơi buôn bán. Cả hai, đều đứng vị trí ưu thế của mỗi làng. Hẳn là từ xa xưa, khi Hồ Thế Viêm từ làng Thái Lăo đất Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, bỏ Đàng Ngoài vào Đàng Trong đă được quan sở tại nâng đỡ, dành cho phần đất màu mỡ, ưu thế nhất làng. Không có thế, không được ưu tiên như vậy. Thế đó dựa vào ai? Trải qua bốn thế hệ, Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Khang, Hồ Phi Phúc, Nguyễn Nhạc, vùng Phú Lạc – Kiên Mỹ là miền quê trù phú sầm uất bên sông Kôn. Đó là dấu nối buôn bán giữa biển với cao nguyên An Khê – Pley Ku (nay thuộc tỉnh Gia Lai).

“Ai lên nhắn với nậu nguồn,

Măng le gửi xuống cá chuồn gửi lên”.

Nhờ uy thế gia đ́nh và vị trí quê hương, Nguyễn Nhạc được giữ chân thu thuế nguồn Vân Đồn. Sách “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” do anh em nhà Ngô Th́ Nhậm (công thần bậc một triều Tây Sơn) đă viết: “Văn Nhạc trước kia nhà nghèo, nhưng sau nhờ vào việc gá bạc mà gia tư bổng trở nên giàu có. Nhạc từng làm Biện lại ở Vân Đồn, nên người ta vẫn thường gọi là Biện Nhạc. Biện Nhạc v́ tiêu mất tiền công bèn trốn vào núi, tụ tập tay chân hơn một trăm người, rồi đi ăn cướp ở các châu ấp”.

(Bản in năm 2001, trang 83)

Theo cuốn Phong trào nông dân Tây Sơn dưới mắt người nước ngời do giáo sư Trương Hữu Quưnh, Chủ biên, Nhà xuất bản tổng hợp Nghĩa B́nh, in và phát hành năm 1998, chương 1: Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn với C.B.Maybon, có những đoạn đáng quan tâm.

Theo “Giới thiệu tác giả: Charles B.Maybon là một nhà sử học Pháp, có tŕnh độ, đọc nhiều và viết nhiều về lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và các nước châu Âu ở các thế kỉ XV-XIX”. Chỉ thế thôi cũng đủ ta tin vào tính khách quan sử học, ít phần a dua của tác giả ngoại quốc này. Về các thủ lĩnh và nguyên nhân “khởi nghĩa” C.B.Maybon viết như sau:

“Những người sáng lập triều đại thoán đoạt Tây Sơn thuộc về một ḍng họ ở Nghệ An, sinh sống lâu đời ở B́nh Định. Ông tổ đời thứ 4 của họ định cư ở Tây Sơn trong vùng cao nguyên An Khê và chính ở đây đă sản sinh ra một cuộc vận động lớn mang tên khởi nghĩa Tây Sơn, một phong trào lan rộng dần ra cả nước Việt Nam. Ba anh em thủ lĩnh là Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ. Người anh cả ban đầu đi buôn trầu ở vùng người dân tộc Bana trong khu vực họ ở, rồi trở thành viên thu thuế ở Vân Đồn.

Sau khi biển thủ kho quỹ, ông ta chạy lên núi v́ sợ bị trừng phạt. Ông tụ tập những kẻ hư hỏng, lính trốn, những người bị tù đày và từ đó có trong tay một băng cướp thực sự. Họ nhanh chóng nổi tiếng về sự cướp phá. Đồng thời ông ta cũng tuyển cả những người nghèo khổ và không suy nghĩ ǵ về cái mồi cướp bóc. Ông ta cứu giúp người nghèo bằng của cải cướp được của nhà giàu và để phát huy thanh thế, đă khôn khéo mơn trớn sự căm giận của nhân dân đối với Trương Phúc Loan. Ông ta nói: “Quan nhiếp chính mới là người chủ thực. Y làm đất nước rối ren, là một kẻ tham lam, lũng đoạn các chức vụ công cộng, nhiệm vụ của chúng ta là phải đuổi tên vô lại đó ra khổi triều đ́nh và trả ngôi chúa lại cho hoàng tử Dương, một người thông minh, có đạo đức và duy nhất có thể lập lại trật tự”

Nhiều chức sắc tin vào sự vô tư của ông và tận t́nh giúp ông. Chẳng bao lâu, ông đă khá mạnh để chiếm lấy thành Quy Nhơn, đoạt các kho công và đứng chân vững chắc trong thành (1773)”.

Nếu đúng như C.B.Maybon viết th́ lúc ban đầu Nguyễn Nhạc tập hợp lực lượng bằng chiêu bài  pḥ Nguyễn. Bỏ họ Hồ đích thực của ḿnh để mạo xưng họ Nguyễn nằm trong mưu tính đó. Khi đă có “trong tay một băng cướp thực sự” Nguyễn Nhạc nhanh chóng liên minh với Tập Đ́nh, Lư Tài là những thương lái vong mạng người Trung Hoa phần nhiều thời gian sống phiêu lưu trên mặt biển, hành vi không mấy phân minh. Người có cảm t́nh ở quốc nội và người có nhận thức khách quan ở quốc ngoại đương thời cùng phát ngôn na ná hẳn không phải là bịa đặt.

Ở thời điểm đó, họ Nguyễn xứ Đàng Trong, có hai việc bức thiết phải chia đôi lực lương. Một là giữ cho yên mặt bắc. Không để quân Trịnh lấn qua bờ nam sông Gianh. Hai là khẩn trương mở mang bờ cơi phía tây nam Tổ Quốc và không được để Hà Tiên lọt sang tay người Xiêm. V́ vậy, dân binh từ Quảng Nam trở ra dành để cầm chân quân Trịnh bên bờ bắc sông Gianh. Từ Quảng Ngăi trở vào chi viện cho Tân Châu – Châu Đốc – Hà Tiên. Gian thần Trương Phúc Loan, tham nhũng, lộng hành vừa làm suy yếu bộ máy quản lư, vừa làm mất ḷng dân. Vơ vương Nguyễn Phúc Hoạt phạm hai sai lầm nghiêm trọng là bỏ qua mọi lời khuyên thẳng thắn đầy trách nhiệm của Nguyễn Cư Trinh về tai họa khôn lường từ vị “quốc phó” lại vội vă xưng vương, bộ phận thần dân pḥ Lê chân chính, coi đó là hành vi bội ước nên đă quay lưng lại. Anh em Tây Sơn nhanh chóng xóa họ Hồ của ḿnh và nhận ngay họ Nguyễn, giương cờ: “Diệt Quốc phó, báo Hoàng ân”. Trong bối cảnh rối rắm như thế, nhiều vị thức giả và dân chúng đă ngă theo anh em Tây Sơn. Bởi nghĩ rằng: “Binh triều là binh Quốc phó. Binh ó là binh Hoàng tôn”. Những người ủng hộ họ Nguyễn, ngă theo binh ó (la ḥ) của anh em Tây Sơn. Họ Nguyễn “lạc nước” trở tay không kịp. Tưởng khó toàn. Nhiều người coi đó là sách lược sáng tạo của một cuộc cách mạng. Lại có người cho rằng làm như vậy chỉ là một thủ đoạn đánh lừa. Dẫu sao, những ngày đầu, nhờ vậy mới có nhiều người nhầm mà theo anh em Tây Sơn. Về cuối, nhiều người biết lại dễ dàng bỏ Tây Sơn.

Nh́n rơ bối cảnh xă hội Đàng Trong vào thời điểm Trương Phúc Loan lộng hành, quả có nhiều người muốn diệt tên tham tàn bất lương đó, không riêng ǵ Nguyễn Nhạc. Giáo Hiến từ Phú Xuân về Tây Sơn đă nói rơ thế t́nh có thể “nhất hô vạn ứng” mà diệt Trương Phúc Loan. Vở kịch trên núi Ḥn Sưng sau làng Phú Lạc, đă diễn ra một cách bài bản. Nguyễn Nhạc được “Ngọc Hoàng thượng đế” giao cho làm “Thiên Vương” cai quản “hạ giới” lan nhanh. Vậy là, Nguyễn Nhạc có người theo. Giành được Quy Nhơn dễ quá, Nguyễn Nhạc, nghĩ ngay đến ngôi vua và vương triều. Ông đă vội vàng xưng vương, vội vàng phân vùng thế lực giữa ba anh em. Vậy là “Diệt quốc phó” không.. “Báo Hoàng ân”, cũng không. “Thoán đoạt”. Từ dùng như C.B.Maybon là hoàn toàn chính xác. Phân liệt trong phong trào Tây Sơn xảy ra ngay từ những ngày đầu, trước hết v́ lẽ đó. Vậy là mâu thuẫn nội bộ h́nh thành quá sớm. Khởi nghĩa nông dân, mục tiêu được xác định rơ ràng và theo đuổi tận cùng mới phải. Anh em Tây Sơn h́nh như mất mục tiêu, chạy theo ba hướng. Nguyễn Hữu Chỉnh gian manh, bỏ Trịnh vào với Nguyễn Nhạc, tâu hết nội t́nh Đàng Ngoài và xui Nhạc đánh chiếm Thuận Hóa. Vậy là vị Trung ương Hoàng đế này giao ngay cho Nguyễn Huệ làm Bắc B́nh vương. Nguyễn Lữ làm Đông Định vương, theo thế phân quyền không thể khác. Giành Thuận Hóa nhanh, bằng mưu của Chỉnh, nên Bắc B́nh vương mắc mưu Chỉnh, cải lệnh vua anh, đem quân đánh ra Thăng Long. Nguyễn Nhạc thấy cánh Bắc B́nh vương phát triển quá nhanh, lo “đuôi to khó vẩy”, lại nghi ngại Nguyễn Huệ thoán đoạt, t́m cách khống chế ngăn cản. Nhưng đă muộn. Tức giận vội vàng chạy theo ra. Nguyễn Huệ cũng đă bộc lộ tư tưởng hùng bá một phương, không chịu đứng dưới lọng Nguyễn Nhạc. Tự chuyên là mầm mống phân liệt. Đó là khoảnh khắc vô cùng quư đối với họ Nguyễn Gia Miêu đang trong t́nh thế tuyệt vọng. Tàn quân Nguyễn ở Gia Định t́m nhau mà dấy lên. Nguyễn Phúc Ánh nương náu ở bên Xiêm được đón trở về. Nhiều nhóm sĩ phu, nghĩa dũng Bắc Hà liên tiếp vượt biển vào Gia Định, giúp Nguyễn Phúc Ánh. Nhờ vậy, hơ Nguyễn Gia Miêu mới vượt qua phút hiểm nghèo “ngh́n cân treo sợi tóc”, thở phào mà lớn lên. Về mặt khách quan mà xét, mưu gian của Nguyễn Hữu Chỉnh muốn mượn tay Tây Sơn đưa ḿnh về Bắc giành lại chỗ đứng, đă gh́m và chuyển hướng tấn công của cánh quân Tây Sơn mạnh nhất ra Bắc, đỡ đ̣n cho Nguyễn Phúc Ánh, tạo nên thế phục hưng vương triều Nguyễn. Nếu Nguyễn Huệ không v́ Nguyễn Hữu Chỉnh làm mất mục tiêu th́ Nguyễn Phúc Ánh khó có thể đọ sức với Tây Sơn và cũng và khó bảo toàn. Âu cũng là do trời vậy.

“Tên Nguyễn Hữu Chỉnh vốn là một kẻ vong mạng, thoát chết, mưu đồ làm việc càn rỡ, đem giặc ngoài vào phá phách nước nhà, giết chủ cũ mà làm hại nhân dân…”

(Hoàng Lê nhất thống chí, trang 208)

Nguyễn Huệ ra Bắc với Nguyễn Hữu Chỉnh trong cái nh́n của Bắc Hà như vậy. Về mặt nào đó, Nguyễn Nhạc có lư hơn khi biết trước những ǵ có thể xảy ra. Nhưng quá muộn. Thế chẳng đặng đừng, vội đuổi theo em nhưng không kịp. Sau tháng 6 năm 1789, người Bắc Hà vượt biển vào Gia Định mỗi ngày một nhiều hơn. Anh em Tây Sơn bỏ Thăng Long trở về trong tâm trạng vui buồn lẫn lộn. Nguyễn Nhạc thu hết quân bản bộ về Quy Nhơn. Nguyễn Huệ giữ trọn “chiến lợi phẩm” châu báu và đồ ngự dụng quư, lấy được từ Thăng Long, mang về Phú Xuân. (Long sàng của vua Lê hiện c̣n tại phủ thờ Định Viễn ở phường Vĩ Dạ, Huế, nằm trong số đó). Cuộc đọ gươm giữa hai anh em Tây Sơn diễn ra dưới chân thành Quy nhơn cuối năm Bính Ngọ, như một tín hiệu chẳng lành. Uy tín Nguyễn Nhạc bị giảm nhanh và t́nh cảm buổi đầu thiên hạ dành cho anh em Tây Sơn mỗi ngày một vợi. “Nồi da xáo thịt” ra đời dưới thời Tây Sơn mà Nguyễn Nhạc buộc phải nói đến để xin em ḿnh dừng tay, về sau hóa ra thành ngữ. Từ đó anh em Tây Sơn thù ghét nhau cho đến khi Nguyễn Quang Toản loại được Nguyễn Văn Bảo (con Nguyễn Nhạc). Một điều làm cho người đương thời nghi ngại rồi xa lánh dần là tính sôi nổi vô hạn trong việc phá đ́nh chùa, làm xúc phạm đến tín ngưỡng của dân chúng, lại thiếu cộng đồng trách nhiệm. Giương cờ “báo hoàng ân” th́ diệt “hoàng ân” tới số. Liên minh với Trịnh rồi đánh Trịnh ngay. Pḥ Lê liền chiếm đất Lê không trả, c̣n giết cả đoàn sứ thần nhà Lê (trong đó có chú vợ) vào thương thuyết, giảng ḥa… Có thể coi đó là sách lược của một cuộc cách mạng nông dân. Cũng có thể coi đó là những điều để rồi mất ḷng dân khó chuộc. (Năm 1787 Nguyễn Huệ bàn với Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ sai Vơ Văn Nguyệt d́m chết đoàn sứ giả nhà Lê gồm Trần Công Xán, Ngô Nho, Lê Duy Án, ông chú Lê Ngọc Hân, vợ mới của Nguyễn Huệ).

Vết thương tâm chưa dịu th́ Nguyễn Huệ đă sai cháu rể là Vũ Văn Nhậm ra Thăng Long giết Nguyễn Hữu Chỉnh, tiếp đó lại tự ḿnh giết Vũ Văn Nhậm. Đúng sai, người đời chưa kịp nhận. Nhưng chết chóc th́ ai cũng kinh hoàng. Cảm t́nh của dân chúng dành cho anh em Tây Sơn không trọn. Nguyễn Công Tấn (thân phụ Nguyễn Công Trứ) với phần đông sĩ phu Bắc Hà vận động phong trào cần vương cứu nhà Lê không xong th́ ẩn náu, án binh bất động đợi thời. Ít người tự nguyện theo phong trào Tây Sơn.

Tất cả những điều như thế đă tạo thời cơ cho họ Nguyễn Gia Miêu sống lại. Tây Sơn mất dần sự ủng hộ của dân chúng. Nguyễn Huệ, đánh thắng ngót 30 vạn quân Thanh (kể cả dân phu), viết nên trang anh hùng ca giữ nước lẫm liệt, mà ḷng người Bắc Hà không mấy sùng bái. Nguyễn Huệ băng hà (1792), Bùi Đắc Tuyên diễn lại vai tuồng Trương Phúc Loan 18 năm trước đó, như là một sự vay trả khôn lường.

Rút cục, lịch sử quả đầy trớ trêu. Cuộc chém giết sống mái cuối cùng lại nằm trong tay hai thế lực, lúc đầu tưởng để cứu nhau.

Nguyễn Quang Toản chiếm được thành Quy Nhơn trong tay Nguyễn Văn Bảo, anh con bác ruột ḿnh, chưa kịp náo nức th́ bị Nguyễn Phúc Ánh giành mất. Vơ Tánh, Ngô Tùng Châu được lệnh cố thủ tới cùng làm cái bẩy trêu tức Nguyễn Quang Toản. Quân Tây Sơn tự ái tập trung binh lực tinh nhuệ nhất đánh Vơ Tánh, Ngô Tùng Châu, để lấy cho được đất bản bộ Quy Nhơn, với bất cứ giá nào đă làm tổn thương nghiêm trọng lực lượng tinh binh. Cuối cùng cũng không giữ được Quy Nhơn lại để Phú Xuân hở sườn, tạo thời cơ cho họ Nguyễn Gia Miêu, đảo ngược thế trận. Từ đó, Nguyễn Quang Toản rơi vào thế bị động chiến lược, thất thế, buộc phải rút chạy ra Đàng Ngoài, khi Phượng Hoàng Trung đô xây dựng dở dang, mà Thăng Long không phải là đất bản bộ. Ở đó, ḷng người đang nuối tiếc một thời Lê huy hoàng, c̣n lắm ngờ vực vào ḷng trung nghĩa của vương triều mới. Nguyễn Quang Toản thực sự sa cơ trên mảnh đất ít người ủng hộ.

Người xưa ít lấy quá khứ ve văn hiện tại. Bởi vậy, cho dù đại thắng mùa Xuân năm Kỉ Dậu (1789) vô cùng oanh liệt, đánh bại một đội quân xâm lược hùng mạnh lúc bấy giờ, cải tử hoàn sinh dân tộc, làm náo nức ḷng người đến thế, nhưng khi Nguyễn Quang Toản thất thế, bị bật ra khỏi Thăng Long, th́ không có người che? Đó là điều đáng tiếc!

Theo hay chống 5 tập đoàn thế lực trên là quyền của người đương thời. Sự thể đă xảy ra và kết cục của nó, người đương thời chịu trách nhiệm trước lịch sử. Hậu thế không thể làm thay.


 

II.  NHÀ NHO

 

Như mọi người đều biết, Nguyễn Công Tấn, đỗ Hương cống (Cử nhân) khoa Kỷ Mùi, năm Vĩnh Hựu thứ 5 (1735), dưới thời vua Lê Ư Tông (1735-1740) và đă từng là giáo thụ phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Sang đầu thời Cảnh Hưng (1740-1786), Nguyễn Công Tấn được nhà vua Lê Hiển Tông gọi ra Thăng Long rồi giao cho giữ chức tri huyện Quỳnh Côi, phủ Thái B́nh, trấn Sơn Nam, một trong những trọng trấn thời bấy giờ. Trấn lỵ Sơn Nam đặt ở Vị Hoàng (về sau đổi thành Vị Xuyên) thuộc thành phố Nam Định ngày nay. Vị Hoàng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn, đứng thứ hai sau Thăng Long thuở đó.

Mẹ đích của Nguyễn Công Trứ là bà Đặng Thị Thử mất sớm. Mẹ đẻ của ông là bà Nguyễn Thị Phan (theo Vũ Ngọc Khánh) là con quan Quản Nội Cảnh Nhạc Bá người làng Phụng Dực, huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây).

Nguyễn Công Trứ ra đời vào năm Mậu Tuất (1778) tại huyện Quỳnh Côi, 26 năm sau khoa thi Hội Nhâm Thân (1752). Ngày ấy, Thái B́nh lừng danh khắp nước bởi có hai nhà khôi Nho giành được vị thứ nhất nh́ trong số 6 Tiến sĩ đồng khoa trúng tuyển. Đó là Tam nguyên, Bảng Nhăn Lê Quư Đôn, huyện Diên Hà và Hoàng Giáp Đoàn Duy Tĩnh (tức Đoàn Nguyễn Thục), huyện Quỳnh Côi. Nguyễn Công Tấn giữ chức Tri huyện, rồi Tri phủ trên quê hương của các vị danh khoa đang là Đô Ngự sử và Phó Đô Ngự sử của triều đ́nh, không náo nức sao nên. Rồi liên tiếp trong hai năm Quư Măo (1783), Giáp Th́n (1784), cả hai vị Đại khoa – Đại thần này (Ḱnh Xuyên Bá – Đoàn Nguyễn Thục, bố vợ Đại thi hào Nguyễn Du và Nghĩa Phái hầu Lê Quư Đôn, một nhà bác học đương thời), lần lượt tạ thế. Tang lễ của hai vị diễn ra liên tiếp trên đất Thái B́nh thuở ấy đă dội vào tuổi thơ Nguyễn Công Trứ dư âm của vị thế làm người, để cùng với mênh mông đất trời, bao la biển cả nâng ước mơ của ông lớn lên giữa vùng phù sa màu mỡ nhiều nắng gió và cũng lắm phong ba này. 12 năm đầu đời (1778-1790), Nguyễn Công Trứ được nuôi dưỡng trong không gian văn hóa Vị Hoàng đầy biến cố sôi động ấy. 12 năm với thân phụ là Tri huyện, Tri phủ, Tham tán nhung vụ, nhà chưa hẳn đă giàu, nhưng sang th́ vốn có. Thân mẫu là con của một vị bá tước, tuy chức vụ Quản Nội trong triều chưa hẳn đă cao, nhưng trâm anh thế phiệt cũng đủ. Thuở ấy, nam nữ chưa được b́nh đẳng b́nh quyền, nên “tam ṭng” là tôn chỉ tối cao của người vợ, người mẹ. Dạy con, chăm cho con ăn học là bổn phận của bà, khi Nguyễn Công Tấn đang cùng đồng liêu lo nghĩa lớn. Văn hóa Thăng Long từ người mẹ đă phả hết vào tuổi thơ con ḿnh. “Tầm sư học đạo” đối với Nguyễn Công Trứ, đương nhiên là không thể khác. Gia đ́nh ấy với môi trường văn hóa ấy đă hun đúc nên một Nguyễn Công Trứ ngay từ thuở thiếu thời vậy.

Giải nguyên Lê Thước viết về Nguyễn Công Tấn như sau: “Đức Ngạn hầu, húy là Công Tấn, ngài học vấn uyên bác, văn chương lừng lẫy một thời, 24 tuổi thi đậu hương giải (cử nhân). Bắt đầu sung chức Giáo thụ phủ Anh Sơn (Nghệ An), kế làm Tri huyện huyện Quỳnh Côi, lại thăng làm Tri phủ, phủ Tiên Hưng (Thái B́nh). Lúc ấy Tây Sơn lấy thành Thăng Long, vua Lê phải bỏ chạy. Ngài xướng nghĩa cần vương được Lê Hoàng phong cho là Đức Ngạn hầu, tham tán các việc nhung vụ xứ Sơn Nam, để chống cự với quân Tây Sơn. Chẳng may bị thua. Ngài muốn đi t́m Lê Hoàng, thời Lê Hoàng đă sang Tàu cầu cứu. Ngài theo không kịp, bèn trở về nhà, thời nhà cửa đă bị Tây Sơn đốt phá mất cả. Ngài phải biệt lập cơ chỉ, mở trường dạy học. Sau Tây Sơn trưng triệu đôi ba lần, Ngài nhất định không ra, cứ ở nhà an bần lạc đạo, cho qua ngày tháng. Thọ 84 tuổi th́ mất”.

(Lê Thước; Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, Nhà in Lê Văn Tân, 136 Rue du Coton, Hà Nội, 1928, trang 6).

Chống Tây Sơn không nổi. Hợp tác với Tây Sơn rơ ràng cũng không. Nguyễn Công Tấn lặng lẽ bỏ nhiệm sở, đưa vợ con về quê nhà (làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Nhà cũ bị đoàn quân Bắc tiến tàn phá không c̣n. Dân làng góp vật liệu tranh, tre, nứa, lá cùng công sức dựng cho vợ chồng quan phụ mẫu Đức Ngạn hầu một nếp nhà nhỏ trên nền đất cũ. Tại đây, ông Nguyễn Công Tấn lại mở lớp dạy con em trong làng. Trước hết là dạy Nguyễn Công Trứ, con ḿnh. Nguyễn Công Trứ trưởng thành dưới cái khung Nho giáo theo sự d́u dắt của người cha rất đỗi uyên bác và vững vàng chính kiến pḥ Lê. Bản lĩnh ấy truyền sang Nguyễn Công Trứ từ tuổi thiếu thời. Bên hàng xóm gia đ́nh Nguyễn Nghiễm – Nguyễn Du cũng vậy. Khí phách một thời cần vương âm thầm truyền sang lớp trẻ. Xă hội Đại Việt Đàng Ngoài dường như phân hóa làm hai mảng. Lớp người ít nhiều có học th́ giữ tấm ḷng trung quân với nhà Lê. Bàn dân không ít người đồng t́nh. Thảng có đôi người như La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Huy Tự… trong thế chẳng đặng đừng, hợp tác với Tây Sơn nhưng không mấy mặn nồng.

Người Hoan Châu, theo hay chống Tây Sơn phân thành hai phía. Làng Tiên Điền của Nguyễn Du, làng Uy Viễn của Nguyễn Công Trứ… bị đốt phá v́ nhiều người ngả theo phía thứ hai.

Bối cảnh đó diễn ra lúc Nguyễn Công Trứ đang đứng trước sự lựa chọn ơ độ tuổi trưởng thành.

“…Gái thời giữ việc trong nhà,

Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa,

Trai thời đọc sách ngâm thơ,

Dùi mài kinh, sử để chờ kịp khoa,

Mai sau nối được nghiệp nhà,

Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân…”

                             (Gia huấn ca lưu hành đương thời ở xứ Nghệ)

 

Những lời giáo huấn như thế thường cùng với phương ngôn. “Nhân bất học bất tri lư. Ấu bất học lăo hà vi”, như một định hướng đă làm nên tâm thức văn hóa Hồng – Lam. Người Nghệ (hiểu theo vùng văn hóa: Thanh, Nghệ, Huế, Quảng) thường dứt khoát trước mỗi lựa chọn. Khi đă học th́ quyết tâm học cho nên người. Lối học để rồi “làm thầy th́ dở, làm thợ th́ dốt” khó được tôn trọng ở xứ này. Khắc nghiệt của môi trường sống đă đành, người Nghệ c̣n tự rèn ḿnh khắc nghiệt cả trong lẽ sống. Ngót 30 năm học chữ và học làm người, Nguyễn Công Trứ “lặn ngụp” trong hai miền khắc nghiệt ấy, trưởng thành từ hai miền khắc nghiệt ấy.

Về quê, về giữa “rừng” Nho Tiên Điền (Nghi Xuân), Lai Thạch, trảo Nha, Thuần Chân (Can Lộc), Việt Yên, Yên Hồ (Đức Thọ), Thu Hoạch (Thạch Hà)… với Phúc giang thư viện đồ sộ mà Nguyễn Huy Oánh lập nên để lại cho lớp trẻ đương thời, đă tràn vào tâm hồn Nguyễn Công Trứ hoài băo lập thân theo con đường khoa cử như là một lẽ đương nhiên.

Nguyễn Công Tấn hướng cho con ḿnh “trung quân ái quốc” và, các vị huấn đạo trong vùng tiếp sức đưa Nguyễn Công Trứ đi giữa làng khôi Nho đất Hồng Lam.

Năm Canh Thân (1800), Nguyễn Công Tấn từ trần, đặt lên vai Nguyễn Công Trứ sứ mạng “thế phụ” gánh vác việc nhà và đeo đuổi mục tiêu “công thành danh toại” theo mơ ước của người cha kính yêu. Bần hàn, đói khổ là thử thách không đơn giản chút nào đối với vị chủ nhân gia đ́nh 22 tuổi. Học là cách hay nhất để chọn con đường tự giải phóng khỏi cơ cực, của con người xứ Nghệ từ bao đời nay, đă được truyền sang Nguyễn Công Trứ. Bởi không thể khác, “học phải hay, cày phải khéo”, tư tưởng này đă vun đắp nên nhiều lớp người Nghệ văn vơ song toàn. Nguyễn Công Trứ là một trong số đó. Làm con, làm chồng, làm cha, làm chủ gia đ́nh, làm thầy đồ, làm nhạc công, làm ruộng… tất cả đều phải bắt đầu từ làm học tṛ. Một con người lăn lóc với đời và với khoa trường “thua keo này ta bày keo khác” như thế, mặc nhiên sẽ trở thành đấng trượng phu, giàu khí phách khó có trong đời.

Sau này, nhiều vị tiến sĩ (học vị trên mức cử nhân của Nguyễn Công Trứ) lên án ông, thóa mạ ông là “con người cá nhân công danh, hưởng lạc”, “lấy việc nghèo khổ làm xấu xa…”  Xét cho thấu, nếu Nguyễn Công Trứ đích thị “lấy việc nghèo khổ làm xấu xa” th́ đă lêu lổng ngay sau ngày mồ côi cha. Có câu đạt đến mức “tên đỏ chói đứng đầu bảng hổ” được.

Từ bài viết “Nguyễn Công Trứ và những việc ông làm hồi thế kỉ XIX” trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số tháng 9-10-1973, dường như đă định hướng cho nhiều lớp hậu sinh cầm bút coi nhẹ phần tư duy độc lập của chính ḿnh. Dẹp loạn yên dân, củng cố nền nhất thống quốc gia mà coi là “điểm đen trong toàn bộ cuộc đời…” th́ điểm đỏ chỉ là sự tan tành như nội chiến trước đó chưa lâu và c̣n đâu vùng Vân Trung – Bảo Lạc trong tay Tổ Quốc ta đến tận hôm nay.

Xin hăy lấy mảnh gương Tụ Long mà soi th́ sẽ nhận biết thế nào là đen – đỏ. Hẹn trở lại vấn đề này ở phần sau: Nhà quân sự.

Một điều băn khoăn của chúng tôi là ngoài sự kèm dạy của ông Nguyễn Công Tấn, Nguyễn Công Trứ, chịu sự thụ giáo của ai? Năm 1928, Giải Nguyên Lê Thước viết rằng: “Cụ lúc c̣n nhỏ, thiên tư dĩnh ngộ khác thường, thụ nghiệp với quan tham đốc họ Lê, người xă Thuần Chân, quan Tham đốc rất ưa văn chương cụ, ư tứ lỗi lạc, tư tưởng cao xa, ngài vẫn biết về sau hẳn là một người đại thành”.

(Lê Thước, sách đă dẫn).

Năm 1995, tác giả Chu Trọng Huyến viết rằng: “Trước lúc mất, ông gửi con trai sang học với một nhà giáo nổi tiếng được nhân dân tôn là Thuần Chân xă, giám đốc Lê đại nhân. Quan giám đôc họ Lê rất quư mến về sức hiểu biết sâu rộng và khả năng thể hiện lưu loát về từ chương của Nguyễn Công Trứ”.

(Chu Trọng Huyến, Nguyễn Công Trứ con người và sự nghiệp; Nhà xuất bản Khoa học xă hội; Hà Nội, 1995, trang 35).

Giữa thế kỉ XVIII ở xă Thuần Chân (nay là Thuận Thiện), huyện Can Lộc, có hai anh em họ Lê, đỗ tiến sĩ đồng khoa Bính Th́n (1736), năm Vĩnh Hựu thứ hai đời vua Lê Ư Tông là:

- Lê Sĩ Triêm, sinh năm 1693, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, làm quan đến chức Đông các học sĩ (có tài liệu ghi là Đốc thị nghệ An, mất tại nhiệm sở). Tuy không rơ năm mất, nhưng có lẽ trước khi ông Nguyễn Công Tấn đưa vợ con về Uy Viễn (Kỷ Dậu, 1789).

- Lê Sĩ Bàng, sinh năm 1705, đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), năm 32 tuổi, làm quan đến chức Đông các học sĩ (có tài liệu ghi Tham chính Kinh Bắc). Năm Nguyễn Công Trứ về quê nhà (1789), khi vị Hoàng giáp này đă bước sang tuổi 85. May mắn lắm chỉ được tiếp xúc, chiêm ngưỡng một hai lần. thụ nghiệp quả là rất hi hữu.

“Tưởng làm đôi trự (chữ, đồng tiền) cho vui vậy,

Bỗng chốc nên quan đă sướng chưa!”

Trên đường đi học, Nguyễn Công Trứ chen vào đám chắt sứ (đánh sấp ngửa bằng tiền đồng) đă nướng trọn một quan tiền, bà thân mẫu cho giắt lưng mang theo đến lớp. Chứng tỏ chỗ học khá xa nhà, mới phải mang nhiều tiền như thế.

Ngày trước lưu thương bằng tiền đồng. 6 trự (đồng) là một tiền. 10 tiền là một quan. 1 quan có 60 trự (đồng) là tiền ăn và tiền học mấy tháng (thời này một con trâu đực giá khoảng 2 quan). Thuở đó, Thuần Chân, Trường Lưu (Can Lộc) và Việt Yên (Đức Thọ) là những ḷ luyện các hạng Nho sinh. Tôi nghĩ nhiều đến Bùi Dương Lịch.

Bùi Dương Lịch (1758 -1828), quê làng Yên Đông, xă Châu Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Hội nguyên (đứng đầu thi Hội), Đ́nh nguyên (đứng đầu thi Đ́nh) khoa Đinh Mùi, 1787, khoa thi chính thức dưới triều Lê. Bùi Dương Lịch là một vị Hoàng Giáp nổi tiếng hay chữ thời bấy giờ. Bởi phải độ thời, ông cũng như La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, Phan Bảo Định có nhận chân tu thư tại viện Sùng Chính thời Quang Trung. Nhưng cũng chỉ cộng tác vài năm giữ lễ rồi xin về quê dạy học. Chắc là giữ lễ không mấy mặn mà nên đến thời Gia Long, vị vua đầu triều Nguyễn mới vời ra làm Đốc học Nghệ An rồi điều về Kinh làm Thự Tế tửu Quốc Tử Giám (Hiệu phó trường Đại học Quốc gia, nơi luyện thi Tiến sĩ và đào tạo quan lại dưới vương triều Nguyễn). Nếu là trọng thần gắn bó mặn mà với nhà Tây Sơn th́ không thể có quan hệ với triều mới đến thế. Là một nhà giáo uyên bác, một học giả nổi tiếng cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, với tên chữ (tự) Tồn Thành, Tồn Trai, Bùi Dương Lịch là tấm gương sáng cho tuổi trẻ xứ Nghệ soi chung. Tác phẩm của ông để lại hiện c̣n: “Nghệ An Kư”, “Bùi gia huấn hài”, “Ốc lậu thoại”, “Yên Hội thôn chí”.

Những bậc danh sư cỡ đó, các thế hệ học tṛ có chí trong vùng không mấy ai không ngưỡng mộ.

Trong khoảng thời gian sau năm 1787, cũng là lúc Nguyễn Công Trứ ở độ tuổi trưởng thành đang “tầm sư học đạo”, lẽ nào không hướng tới vầng sáng này. Có thể là ngẫu nhiên. Cũng có thể là tri ân kỉ niệm. Nguyễn Công Trứ có tên chữ (tự) Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai gợi lên điều ǵ đó như bóng dáng của Tồn Thành, Tồn Trai nơi Bùi Dương Lịch vậy.

Đặt hiệu Ngộ Trai, tự Tồn Chất, để có Trai có Tồn, mà tri ân thầy chăng? Sự sáng dạ của Bùi Dương Lịch, văn chương Bùi Dương Lịch, tính cách Bùi Dương Lịch… dường như phảng phất ít nhiều trong Nguyễn Công Trứ - Hy Văn.

Khoa Thi hương đầu tiến dưới chính thể Gia Long, diễn ra 7 năm sau ngày Hầu tước Nguyễn Công Tấn tạ thế. Bảy năm hẫng hụt, bần hàn, đói rét, bế tắc bậc nhất trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ. “Giấy rách phải giữ lấy lề” là phương châm sống của Tồn Chất trong lúc này. Có lẽ, bảy năm mới mồ côi cha, Nguyễn Công Trứ phải đấu tranh quyết liệt với cái đói của bản thân, của mẹ già và của vợ con. “Giữ lấy lề”, trước hết là:

“Một ḷng thờ Mẹ kính Cha.

Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con”.

(Gia huấn ca)

Thờ Mẹ, giúp vợ nuôi con là bổn phận. Kính Cha lúc này là vâng lời Cha trọn vẹn. Ấy là học. Ấy là bảng vàng, bia đá vinh quy. Từng đó việc phải lo toan gánh vác, gian nan và nặng nề lắm. Nguyễn Công Trứ đă tuyên bố:

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,

Không công danh thời nát với cỏ cây.

Học để làm người trung hiếu hoặc là chết. Đơn giản vậy thôi. Công và danh gắn liền với học và thi. Bảy năm làm mọi nghĩa vụ với gia đ́nh nhưng không sao nhăng việc học. Và phải học như thế nào đó mới dám vác lều chơng ra trường thi. Tự tin, hy vọng gửi cả vào đôi câu đối thay vợ tự chúc ḿnh.

“Nhờ trời phù hộ chồng tôi, miếng khoa giáp ăn xanh phường sĩ tử.

Ơn Chúa yêu v́ bố nó, nợ trần hoàn trang nắng mặt nam nhi.”

Khoa thi hương đầu đời ông, cũng là lần đầu thời vương triều Nguyễn diễn ra vào năm Gia Long thứ 6, Đinh Măo (1807). Tử tước Cao Xuân Dục viết những ḍng đầu trong “Quốc triều hương khoa lục” như sau:

“Hồi đầu đời quốc triều, chỉ các địa phương tiến cử người có học, đến năm này mới bắt đầu mở khoa thi hương. Từ Nghệ An trở ra Bắc có tất cả 6 trường. Ngoại trường đặt chức Đề điệu, Giám thí; nội trường đặt chức Giám khảo, Sơ khảo, Phúc khảo. Phép thi ḱ thứ nhất (nhất trường) thi Kinh nghĩa 5 đề, Truyện 1 đề. Sĩ tử làm bài chỉ về một hay nhiều Kinh nghĩa đều được. Ḱ thứ hai (nhị trường) thi Chiếu, Biểu, Chế. Mỗi loại một đề. Ḱ thứ ba (tam trường) thi thơ Đường luật 1 đề, phú tám vần 1 đề. Ḱ thứ tư (tứ trường) thi Sách vấn 1 đề. Tất cả theo từng ḱ ra bảng, trúng ḱ trước mới được vào thi ḱ sau. Người trúng tam trương là sinh đồ. Trúng tứ trường là Hương cống. Được ban mũ áo và đăi ăn yến. Từ khoa này trở đi đến năm Măo, năm Dậu th́ tổ chức thi”.

Khoa thi này, Nguyễn Công Trứ là sĩ tử trường Nghệ An, do Tả Tham tri bộ Lễ Nguyễn Gia Cát làm đề điệu. Hiệp trấn Hưng Hóa Nguyễn Đ́nh Tứ làm Giám thí. Thiêm sự bộ binh Hoàng Trọng Toản, làm Giám khảo. Kết thúc khoa thi năm ấy, trường Nghệ An chỉ có 8 người trong số hàng ngh́n sĩ tử dự thi “được ban mũ áo và đăi ăn yến”.

1. Hồ Sĩ Đề, 2. Trần Dung, 3. Dương Doăn Nguyên, 4. Đinh Miễn (đồng Hương của Nguyễn Công Trứ), 5. Nguyễn Trung Mậu, 6. Hồ Sĩ Trinh,

7. Nguyễn Đ́nh Diễm, 8. Trần Nguyên Lễ.

Nguyễn Công Trứ không qua được ḱ thứ nhất. Vậy là cái “nợ cầm thư” c̣n đeo đẳng.

“Đi không há dễ lại về không.

Cái nợ cầm thư phải trả xong.

Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt.

Dở đem thân thế hẹn tang bồng.

Đă mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh ǵ với núi sông.

Giữa cuộc trần, ai dễ biết,

Rồi ra mới tỏ mặt anh hùng”.

 

Từ một cậu ấm 12 năm tuổi thơ đầu đời với màn the trướng gấm, bởi thế cuộc, phải hạ xuống mức làm cậu nho trường làng, nhưng trong khoảng thời gian này, Nguyễn Công Trứ đang c̣n cha cầm chèo, bẻ lái trong bước “phú quư thụt lùi”, gánh nặng gia đ́nh chưa phải đặt lên vai. 7 năm không c̣n cha. 7 năm làm chủ một gia đ́nh mẹ già, vợ dại, con thơ. 7 năm buồn hẫng hụt trong niềm háo hức báo hiếu vào một khoa thi, những mong rẽ ngang bước ngoặt cuộc đời. Nhưng chưa thành. Bạn ông, một người hay chữ như Phan Huy Chú cũng chỉ vào được ḱ đệ nhị mà thôi.

Không như ư. Người thiếu bản lĩnh hẳn là suy sụp.

“Đi không há dễ lại về không”!

“Về không” với lời tự an ủi mà đời đă xếp sẵn cho mọi người là “học tài thi phận”, là “thua keo này bày keo khác”. Về không với phía trước gánh nặng đói nghèo. Nguyễn Công Trứ lại tự t́m chữ trên những đường cày, trong những đêm nhạc công, tại những giờ gơ đầu trẻ. Bởi Kinh nghĩa ở ḱ thi thứ nhất, sách thánh hiền vốn dạy, ông đă thuộc, đă thấm, sao không vượt qua. Có điều ǵ đó như thể không thường. Suy nghĩ và dùi mài để chờ kịp khoa. Từ Măo sang Dậu, phải 6 năm sau mới đến. Tự vấn và suy tư là điều diễn ra thường trực trong ḷng người con trai đang bước vào tuổi “nhi lập” này. Hẳn là Nguyễn Công Trứ quá háo hức vào một khoa thi mà quên rằng đất nước đang ở giữa thời buổi hàn gắn những nỗi đau chia cắt ngót ba thế kỉ. Đàng Ngoài, Đàng Trong, người thua kẻ thắng… là điều dễ thấy. Sâu hơn, xa hơn, nặng nề hơn ấy là chính kiến, là ư thức hệ, là trường phái Tống Nho (Bắc), Minh Nho (Nam) c̣n hằn đậm trong nhận thức, trong nếp nghĩ suy đâu phải chỉ một lớp người. Đề diệu, Giám thí, Giám khảo là các vị quan tân triều chịu ảnh hưởng chính thống của một luồng Minh Nho. Sĩ phu, sĩ tử Bắc Hà lại là những người được luyện từ các ḷ Tống Nho khắt khe, nghiêm túc. Cái khác nhau của hai xu hướng này, không chỉ qua mỗi ḱ thi. H́nh như, trong nhiều nỗi thăng trầm của Nguyễn Công Trứ c̣n có cả nguyên nhân va vấp về học thuật dạng này.

“Về không”, lại bắt tay ngay vào việc để “bày keo khác”. Cái đáng trọng, đáng quư, đáng khâm phục đầu tiên là chí bất khuất của một Hàn Nho. Thấm nỗi nghèo hèn, nhưng không nô lệ cảnh ngộ. Nh́n thẳng vào cái nghèo để đạp lên mà vượt qua. Mấy ai được thế. Ch́ chiết ông điều đó sao nên. Đây có lẽ là thời gian ra đời “Hàn Nho phong vị phú”.

Chém cha cái khó!

Chém cha cái khó!

Khôn khéo mấy ai.

Xấu xa một nó.

Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai.

Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.

Ḱa ai!

Bốn vách tường mo.

Ba gian nhà cỏ.

Đầu kèo mọt tạc vẽ sao,

Trước cửa nhện giăng màn gió.

Phên trúc ngăn nửa bếp, nửa buồng

Ống nứa đựng đầu kê, đầu đỗ.

Đầu giường tre mối rủi quanh co,

Góc tường đất trùn lên lố nhố.

Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri hô,

Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà,con mèo ngấp ngó.

Trong cũi, lợn nằm gậm máng,đói chẳng buồn kêu,

Đầu sàn, chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.

    Ngày ba bữa vỗ bụng rau b́nh bịch,người quân tử ăn chẳng cầu no,

   Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho,đời thái b́nh cửa thời bỏ ngỏ.

Ấm trà góp lá vằng lá vối, pha mùi chát chát chua chua

Miếng trầu têm vỏ mận vỏ da,buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.

Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối,bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,

Khăn lau giắt đỏ ḷm, trải làm chiếu,vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.

Đỡ mồ hôi vơng lác quạt mo,

Chống hơi đất dép da guốc gỗ,

Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,

Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre,của đâu những của.

Đồ chuyên trà ấm đất sứt ṿi,

Cuộc sống rượu be sành chắp cổ.

Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách,khói bay lem luốc, mầu thủy mặc mờ mờ,

Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhắp lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.

Cỗ bài lá ba đời cửa tướng,hàng văn hàng sách lờ mờ,

Bàn cờ săn bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.

Lộc nhĩ điền lúa chất đầy giường,

Phương tịch cốc khoai vừa một giỏ.

Tiêu dụng lấy chi mà phao phổng,  thường giữ ba cọc ba đồng,

Mùa màng dành để có bao nhiêu,chừng độ một triêng một bó.

Mỏng lưng xem cũng không giàu,

Nhiều miệng lấy chi cho đủ.

Đến bữa không sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,

Qua kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.

Thuốc men rắp ḅn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ư dă, thế nào cho đáng giá lương y,

Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.

Quẻ đă hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bơ bèn,

Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, t́m c̣n chưa chộ.

Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt chúng ḥng rước gánh, mập ṃ cho hàng chẳng có lời,

Bạc cờ toan gỡ cơn đen, chưa sẵn lưng lại giành nơi hỏi gạn, măi dạm không ra thổ.

Gấp khúc lương nên ít kẻ yêu v́,

Trương mắt ếch biết vào đâu mượn mổ.

Đến lúc niên chung nguyệt quư,lấy chi tiều đồng nợ đồng công,

Gặp khi đường sẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.

Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đă mỏi cẳng ngồi tŕ,

Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.

Thầy tớ sợ men t́m đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,

Chị em e vất lấm vào lưng, ch́a mui nhọn mỏ.

Láng giềng ít kẻ đến nhà,

Thân thích chẳng ai nh́n họ.

Mất việc toan trở nghề “cơ tắc”, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,

Túng đường mong quyết chí “cùng tư”, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.

Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, thường ngâm câu lạc đạo vong bần,

Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.

Tất do thiên, âu phận ấy là thường,

Hữu ḱ đức, ắt giời kia chẳng phụ.

Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trục, dấu xưa ông Phó ông Hề,

Cần nghiệp nho tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.

Nơi thành hạ gieo cần câu cá, ḱa ḱa người quốc sĩ Hoài Âm,

Chốn lư trung xách thớt chia phần, nọ nọ đứng mưu thần Dương Vơ.

Khó ai bằng Măi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,

Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng,cũng có hồi xiêu tường ngói đổ.

Mới biết,

Khó bởi tại giời,

Giàu là cái số.

Dầu ai ruộng sauu trâu nái, đụn lúa kho tiền,cũng bất quá thủ tài chi lỗ.

“Bần tiện song le tính vốn lành”. Tính ông là thế. Ung dung, tự tại, “phím đàn, níp sách” chơi mà học là tính cách của một nhà Nho. Ở ông, lúc hàn vi nhất đă thể hiện rơ ràng phẩm cách “bần tiện bất năng di” của một con người giàu tiết tháo. Bởi quan niệm duy vật thực sự đă có trong máu thịt ông, một nhà Nho, một tín đồ chịu ảnh hưởng sâu sắc quan điểm cách tân của Vương An Thạch thời Tống. Có thế ông mới viết được:

“Khó ai bằng Măi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,

Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng, cũng có hồi tường xiêu vách đổ”.

Tin vào ngày mai tươi sáng bởi sức phấn đấu tự bản thân ḿnh là đức tính quư báu số một nơi ông.

Từ năm Măo đến năm Dậu phải mát 6 năm mới có khoa thi Hương thứ hai.

Sáu năm (Đinh Măo, 1807 – Quí Dậu, 1813), Nguyễn Công Trứ thực sự trải qua đói rét và khát vọng. Những bài học trắc nghiệm trước thử thách nghiệt ngă để làm người đă đến với Nguyễn Công Trứ trong suốt thời gian “dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa”.

Di sản văn hóa đầu tiên ông để lại cho đời chính là chỗ đó. Năm 1954, từ Điện Biên Phủ về tiếp quản thủ đô Hà Nội, trong háo hức vinh quang, đúng vào dịp cải cách ruộng đất đang ở đỉnh cao thắng lợi, tôi được chuyển ngành về khu Thủy Lợi khu 3. Không c̣n con đường sống nào hơn là nhận chân công nhân, chạy mia, vác máy giúp việc cho bác Phạm Văn Ḱnh cán sự công chính lưu dung. Và, từ Sơn Tây, tôi về quê rồi lặn lội đến vài nhà tù t́m cha, một Đảng viên Cộng sản có mặt từ ngày đầu thành lập Đảng. Xót xa lắm, nhưng nhờ Ngộ Trai đă kịp “đến với tôi” qua “Có lẽ ta đâu măi thế này”, trong những ngày trầm luân, tủi nhục ấy. Tôi mang ơn ông suốt đời. Tôi mơ thấy ông và nhận ở ông những lời dạy bảo. Có lẽ cũng nhờ ông, tôi đă vượt qua cơn bệnh hiểm nghèo.

“Anh em ơi! Bâm sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.

Trời đất nhẽ, một phên này nữa, xếp cung kiếm cầm thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh”.

Khoa thi này (Quư Dậu, 1813), trường Nghệ An do Lê Quưnh, Hữu Tham tri bộ Lễ làm Đề điệu, Phạm Quư Thích, Thị trung học sĩ, làm Giám thí, Trần Hựu, Đông các học sĩ làm Giám khảo, lấy đỗ được 12 người. (Lưu Công Đạo, Vũ Khắc Kiệm, Vũ Nhật Tân, Phạm Đ́nh Trọng, Hồ Phúc Tướng, Hoàng Văn Vận, Nguyễn Thế Cát, Ngụy Khắc Thận, Lê Nguyên Trung, Bùi Danh Củng, Vũ Huy Quưnh, Nguyễn Duy Phiên).

Nguyễn Công Trứ, qua ṿng hai th́ vắng tên. Phan Huy chú, người đă vào được ḱ thi thứ 2 (nhị trường), khoa Đinh Măo (1807), giành bảng Tú tài, lần này cũng vậy. Một con người nổi tiếng hay chữ, đến như Nguyễn Công Trứ c̣n nể trọng, hai lần thi cũng chỉ đạt được mức Tú tài kép.

Chân Tú tài mà Nguyễn Công Trứ nhận được ở khoa thi này, chẳng bơ bèn ǵ với sức học, thực tài và nhất là niềm tin mà ông đă ước định. Dù sao th́ cũng là một nguồn ai ủi. Bởi giá như lần này cũng trắng tay th́ cùng với cái nghèo khó, sẽ nhấn ch́m ông trong tuyệt vọng.

Vậy là tuy ở khoa thi Quí Dậu (1813) này, vạn sự như ư chưa đến với Nguyễn Công Trứ, nhưng đă bén vào cái giải Tú tài cũng đă làm mát mặt mẹ, vợ và làng xóm, quê hương. Sự nghèo đói của nhà ông Tú chưa dễ cải thiện, nhưng uy tín thầy đồ nơi ông đă lan xa. Học tṛ đến xin ông thụ giáo nhiều hơn. Một bước ngoặt khiêm tốn trong cuộc đời hàn Nho, như một hứa hẹn sẽ cho hướng đi mới của ông. Niềm vui tuy c̣n nho nhỏ, nhưng sự phấn chấn và nguồn hi vọng th́ được nuôi dưỡng có cơ sở hơn. Tự tin cũng mănh liệt hơn. Rừng Nho đất Hồng Lam trước mắt ông rực rỡ, sầm uất nuôi dưỡng niềm tin đó. Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Khản bên hàng xóm; Lê Sĩ Triêm, Lê Sĩ Bàng, Phan Huy Cận, Phan Huy Ích, Phan Huy Ôn, Vũ Diệm, Ngô Phúc Lâm, Phan Kính, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Quưnh, bên trong Hồng Lĩnh; Nguyễn Hành, Phan Khiêm Thụ, Phan Bảo Định… của La Sơn như đang vẫy gọi, cùng với kinh nghiệm của hai ḱ thi đă qua, gom lại làm nên quyết tâm cho trận bút khoa sau, Kỷ Măo, 1819.

Khoa này tại trường thi Nghệ An do quan Vũ Đức Thông, Hữu Tham tri bộ H́nh làm Đề điệu; Hoàng Long Hoán, Kư lục dinh Quảng B́nh làm Giám thí; Nguyễn Chân Ngôn, Thiêm sự bộ H́nh làm Giám khảo, lấy đỗ 14 người.

(Nguyễn Công Trứ, Đặng Huy Thuật, Hồ Minh Tịnh, Nguyễn Năng Tĩnh, Hồ Sĩ Lâm, Lê Sĩ Thường, Nguyễn Chương Đạt, Bùi Văn Tán, Nguyễn Huy Triêm, Nguyễn Hữu Tố, Lê Hữu Tuệ, Nguyễn Đức Hiển, Phan Bá Đạt, Nguyễn Bùi Nhă).

Sự khổ công của ông đă được đền đáp. Nguyễn Công Trứ “đứng đầu bảng hổ” trước 3000 sĩ tử. Vẻ vang nào hơn. Mẹ, vợ, các con, họ hàng, làng xóm, hàng tổng, hàng huyện náo nức mừng vui, râm ran lời truyền. Chuyện học, chuyện chơi, chuyện hiếu thảo, chuyện lễ phép nết na… của ông đồ Nho xứ Nghệ, được thêu dệt thêm, lan đi rất xa. Bởi thuở trước, thi đỗ là niềm vui không thuộc một nhà.

Nguyễn Công Trứ vượt qua bốn cấp thi một cách nhẹ nhàng để được đứng đầu bảng: Giải Nguyên. Người bạn đồng liêu về sau của Nguyễn Công Trứ là Trương Đăng Quế (tổ tiên người Thạch Hà, Hà Tĩnh, chuyển cư vào B́nh Sơn, Quảng Ngăi), đỗ thứ 9 cùng khoa, tại trường Trực Lệ (Kinh đô Huế).

Giải nguyên các trường thi cùng khoa Kỷ Măo (1819) này là: Nguyễn Đăng Ngạn (Trực Lệ), Nguyễn Công Trứ (Nghệ An), Trần Lê Hiệu (Thanh Hóa), Nguyễn Viết Khuôn (Thăng Long), Ngô Đ́nh Thái (Sơn Nam), Trương Hảo Hiệp (Gia Định).

42 năm đầu đời của nhà Nho Nguyễn Công Trứ có thể cắt thành 4 khúc. 12 năm đầu là cậu “ấm” lớn lên trong một gia đ́nh trâm anh, giữa vùng quê hương Quỳnh Côi – Thái B́nh – Sơn Nam, trù mật. Học cha và học thầy trong tư thế con của một vị quan đầu phủ. Đó là những năm tháng hồn nhiên, viên măn vào đời. Năm 1786, Tây Sơn tiến quân ra Bắc diệt Trịnh pḥ Lê. Những cuộc sát phạt liên tiếp xảy ra gây nên nhiều nỗi kinh hoàng trong dân chúng.

Quan lại, sĩ phu, nho sĩ Bắc Hà, một số cố giữ ḷng trung với nhà Lê chính thống, một số ngỡ ngàng phân vân trước thế lực mới nổi lên từ ấp Tây Sơn. Chạy theo vua Lê hoặc yếm thế đợi chờ là t́nh trạng chung của xă hội Đàng Ngoài nửa cuối thế kỷ XVIII. Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn cũng nằm trong xu thế đó. Giữ trọng trách Tham tán nhung vụ, tổ chức phong trào cần vương chống Tây Sơn không nổi th́ về quê ở ẩn, bất hợp tác với tân triều. 10 năm tiếp theo (1789-1790), Nguyễn Công Trứ là một cậu “ấm” sống trong t́nh cảnh “phá sản” của gia đ́nh. Lộc nước của cha không c̣n. Bổng nhỏ do Nho sinh đóng góp th́ bấp bênh, nhiều ít không thường. Thế nhưng ông vẫn kiên định với ư chí “giấy rách phải giữ lấy lề”. Ông Tấn nhất định không xuất, từ chối hợp tác với Tây Sơn. Thái độ thức giả đương thời, phần đông là vậy. Nguyễn Công Trứ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ gia đ́nh và làng xóm. Bên Tiên Điền, nhà Nguyễn Du cũng vậy. Đây là 10 năm ông Nguyễn Công Tấn khẳng định ḿnh bằng tư tưởng “lạc đạo vong bần”. Tính cách của Nguyễn Công Trứ hoàn thiện dần trong ḷ luyện đó.

Khúc thứ ba là làm cậu “ấm” mồ côi cha. Dù ít ỏi, bổng lộc dạy học của ông Tấn cũng c̣n có mà trang trải rau cháo độ nhật qua ngày. Ông Tấn ra đi. Gia đ́nh trắng tay. Sự hụt hẫng, sự mất mát sau ngày ông Tấn qua đời đến ngay với hai mẹ con bà quả phụ Nguyễn Thị Phan. Lấy vợ để nhờ vợ mà gánh vác việc nhà là sự lựa chọn hoàn cảnh, không thể khác. Điều may mắn là: vợ ông, bà Đặng Thị Minh lấy việc thờ chồng nuôi con làm bổn phận. Nguyễn Công Trứ đành phải dựa vào vợ mà đứng lên. Nhưng cuộc thi đầu đời năm Đinh Măo (1807) không đỗ. Vừa là sở trường, sở thích vừa để độ nhật, Nguyễn Công Trứ xông vào nghề cầm ca trở thành một nhạc công được nhiều gánh hát mến mộ. Đó là thời gian nhà Nho Nguyễn Công Trứ đóng góp sức ḿnh vào việc nâng cao và hoàn chỉnh ca trù Cổ Đạm. Dạy học, để học, để thi vốn là tôn chỉ định hướng từ đầu, ông không bào giờ lơi lỏng. Có chí th́ nên. Người xưa khuyên bảo vậy, Nguyễn Công Trứ trung thành với lời dạy đó. Vượt qua chặng bần hàn nhất ở khúc thứ 3, ông đỗ Tú tài ở khoa thi Hương thứ hai dưới vương triều Nguyễn (Quư Dậu, 1813).

Khúc thứ bốn bắt đầu quăng đời của một anh Tú tài 36 tuổi. Được miễn đăng lính (theo qui định dưới thời Gia Long), từng trải qua hai khúc bần hàn. Cuộc sống gia đ́nh tuy thêm nhiều miệng ăn hơn, nhưng cách kiếm ăn th́ đă khá thạo, đỡ lúng túng ngỡ ngàng hơn. Vả lại, dù chưa là ǵ cả nhưng cái chân Tú tài của ông đă gây thêm thanh thế nên dễ vay mượn đồng thời có nhiều môn sinh hơn. Mà cái chính là giúp Nguyễn Công Trứ củng cố sự kiên định vào niềm tin và hi vọng. Kinh nghiệm qua hai trận bút, điều chỉnh và bổ sung tri thức. Trận thứ ba “đứng đầu bảng hổ”. Đó là bước quyết định. Đổi đời.

“Tước hữu ngữ cư sĩ cư ḱ liệt,

Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.

Có giang sơn thời sĩ đă có tên,

Từ Chu Hán vốn sĩ này là quư.

Miền hương đảng đă khen rằng hiếu để,

Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường.

Khí hạo nhiên chí đại chí cương,

So chính khí đă đầy trong trời đất.

Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,

Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn.

Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn

Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.

Cầm chính đạo để tịch tà cự bí,

Hồi cường lan nhi chướng bách xuyên.

Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,

Đem tất cả sở tồn làm sở dụng.

Trong lang miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thùy rạch mũi can tương.

Sĩ làm cho bách thế lưu phương,

Trước là sĩ sau là khanh tướng.

Kinh luân khởi tâm thượng,

Binh giáp tàng hung trung.

Vũ trụ chi giai giai phận sự.

Nam nhi đáo thử thị hào hùng.

Nhà nước yên mà sĩ được thung dung.

Bấy giờ sĩ mới t́m ông Hoàng Thạch.

Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,

Tiêu dao nơi hàn cốc thâm sơn.

Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn.

Đồ thích chí chất đầy trong một túi.

Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi,

Gẫm việc đời mà nhắm kẻ trọc thanh

Này này sĩ mới hoàn danh”.

(Luận kẻ sĩ)

 

 

III. NHÀ NÔNG

 

Sinh ra và lớn lên tại huyện lỵ Quỳnh Côi cũng có nghĩa sinh ra và lớn lên giữa vựa lúa châu thổ sông Hồng. Nguyễn Công Trứ sớm nh́n thấy người làm ruộng và nguồn gốc của hạt gạo. Hai sương một nắng, đói nghèo vẫn không buông tha những người nông dân cần mẫn sớm trưa. Vả lại, ở thế kỷ XVIII, một huyện lỵ nằm giữa vùng quê, con quan và con dân chưa cách biệt lắm. Có thể ông cũng đă từng nhắc cần câu lang thang cùng lũ trẻ quanh vùng. T́nh yêu thiên nhiên với ông trước hết là t́nh yêu con người, cây lúa, cánh đồng. Dạo đó, những năm 1778 – 1790, biến động lịch sử ngót ba thế kỷ xô đẩy nhiều lớp người bần hàn phiêu tán chưa vợi đi mà c̣n có chiều hướng gia tăng. Cuộc tiến quân của Nguyễn Huệ vào Thăng Long năm 1786, đạp đổ vương triều họ Trịnh quá nhanh, người đương thời chưa kịp minh định nên theo ai và nên chống ai. Người ta tránh nơi máu lửa đi tha phương là điều dễ xảy ra. Đội quân đói nghèo thất nghiệp của những thế kỉ trước lại được bổ sung. Cuộc tiến quân của Vũ Văn Nhậm ra giết Nguyễn Hữu Chỉnh, mưu sĩ một thời của Nguyễn Huệ, tiếp đó, cuộc tiến quân của Nguyễn Huệ ra giết Vũ Văn Nhậm, tướng lĩnh thuộc quyền, xảy ra trong chốc lát. Vua Lê Duy Ḱ mất ngôi phiêu dạt trong đoàn người phiêu dạt. Tâm lư hăi hùng lan truyền trên khắp xứ Đàng Ngoài. Đây đó dựng cờ cần vương giành lại ngai vàng cho Lê Mẫn Đế, không thành, ră đám, nhập vào sự rối loạn chung. Nguyễn Công Tấn nằm trong lớp người ấy. Nguyễn Công Trứ theo cha mẹ gồng gánh chạy về quê nhà lánh nạn, trong sự hỗn loạn của “chuyển động brao” như thế. Về Quê (1790), nhà vừa bị đốt phá trơ lại sự điêu tàn. Thê lương và hoang phế nén vào ḷng ông. Rồi trên cái nền đất hương hỏa của nhà ḿnh, bà con, họ hàng, làng nước đến. Kẻ tranh tre, người nứa lá góp sức, góp công dựng cho gia đ́nh ông một nếp nhà đơn sơ nhưng ấm t́nh người. Nguyễn Công Trứ lớn lên giữa t́nh thương của làng quê nghèo. Thương ḿnh, thương cha mẹ ḿnh, thương bà con thân thuộc, thương người, dấy lên trong tuổi thơ của ông. Ông biết mang ơn những người nông dân đất Uy Viễn từ đó. Thế là trong bước sa cơ của gia đ́nh, Nguyễn Công Trứ dần dần nhận chân lẽ sống. Người nông dân nghèo ở đâu cũng vậy cả. Nghèo và khổ của Nguyễn Công Trứ được chia sẽ trong sự nghèo và khổ của xóm làng. Ông nhập vai nông dân từ những ngày đầu về với vùng quê Uy Viễn là vậy.

Làng Uy Viễn nằm bên bờ hữu ngạn sông Lam dưới chân phía bắc Hồng Lĩnh, đất pha cát trồng màu nhiều hơn lúa nước. Đồng khô cỏ cháy làm ra hạt gạo củ khoai khó khăn trăm bề. Dẫu là cậu ấm, khi đă sống giữa làng quê th́ lát khoai khô, ngọn rau má, mớ cốm dẹp, nhúm lớ, đọi kê… chia sẽ mặn nồng với nhau là chuyện thường t́nh. Đi học, đi dạy, đi cày không phân biệt. Nhà Nho nghèo xứ Nghệ không xa anh trai cày bao nhiêu. Xưa kia vốn vậy.

“Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng.

Ống nứa đựng đầu kê, đầu đỗ”

Đó là hạt giống mùa màng. Đó là nhà nông nằm giữa nhà quan sa cơ. Sau này ông Nguyễn Công Tấn qua đời, Nguyễn Công Trứ gánh vác bổn phận làm con, rồi làm cha trong loạn lạc, bần hàn tuy vẫn lấy sự học làm cứu cánh, nhưng miếng cơm manh áo cập nhật của cả nhà, ông cùng vợ phải lo toan. Không cuốc cày, vườn ruộng lấy đâu ra hạt gạo, củ khoai trong khi bổng lộc mỗi ngày một kiệt. Ông là nhà Nho đích thực. Ông cũng lại là nhà nông hiểu biết đường cày, thấu hiểu mơ ước và tấm ḷng của người làm ruộng. 19 năm, từ ngày mồ côi cha (1800-1819), Nguyễn Công Trứ đă trải qua t́nh cảnh đó.

Sau 30 năm làm trai làng Uy Viễn (1789-1819), nghề nông đủ thấm, 42 tuổi, ông bước vào trận bút thứ 3 (Kỷ Măo, 1819), giành giải Khôi Nguyên. Tiếng tăm lừng lẫy đất Hoan Châu. Bỏ đường cày, vào kinh đô làm quan, nhưng hạt gạo th́ gắn bó suốt đời.

Vậy là vị tân khoa xuất sắc gặp được vị tân vương đang mong mỏi dựa vào làng khoa bảng để củng cố thực quyền, trước đám cựu khai quốc công thần, mà khôi phục và xây dựng đất nước. Những bước hoạn lộ ban đầu, với Nguyễn Công Trứ quả là hanh thông. Vế một trong “tam cương” (vua – tôi) như vậy là hoan hỷ. Cả hai (Nguyễn Thánh Tổ - Nguyễn Công Trứ) t́m được sự tương đắc trong cương vị mỗi người. Câu chuyện về giấc mơ của nhà vua gặp một người đội mũ cỏ với bộ thảo trong chữ Trứ tên ông, chính là nói lên sự tương đắc này. Từ một nhân viên hành tẩu (tập sự) ở Quốc Sử quán, không mấy lúc đă được chuyển sang biên tu, toản tu, Tri huyện Đường Hào. Chưa đầy năm đă là Lang trung ở bộ Lại, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, rồi Thiêm sự bộ H́nh. Để 5 năm sau đă là Phủ thừa phủ Thừa Thiên, rồi Tham hiệp Thanh Hóa. Tháng 6 năm Bính Tuất (1826) mẹ ông, bà Nguyễn Thị Phan quá cố, nhà vua nhận biết sự thanh bần của ông cho người đến giúp 100 lạng bạc để lo tang lễ. Sự ưu ái cũng có nghĩa là sự tin cậy của nhà vua đối với ông như thế, làm dấy lên trong ông ḷng trung thành tận tụy để phụng sự hết ḿnh. Nhà Nho và nhà Nông là hai nửa hợp thành trong con người tài hoa, năng động, đầy nhiệt huyết, tự giác, hăm hở cống hiến cho triều đại mà ông lựa chọn và chờ đợi. Với cương vị Tham tán công vụ tại Tào H́nh Bắc thành, Nguyễn Công Trứ phối hợp dẹp loạn Phan Bá Vành là không thể khác. Chung cuộc, ông đă biết nghĩ ngay đến người làm ruộng và nghề làm ruộng mới là điều đáng nói. Đứng trước sự rối ren của hàng trăm năm dồn lại cùng hàng ngh́n người phiêu tán màn trời chiếu đất, lang thang trên mọi nẻo đường đất nước, hơn ai hết. Nguyễn Công Trứ với tấm ḷng nông dân của ḿnh đă nghĩ đến “an cư lạc nghiệp”. Đưa dân trở về bản quán chính là đưa người cày trở về đồng ruộng sẽ là biện pháp tốt nhất giải quyết rối rắm và nghèo đói trên toàn xă hội. Đó cũng là yêu cầu lịch sử sau 300 năm binh đao. Bởi có nghề làm ruộng mà không có ruộng hoặc có ruộng mà không có người làm ruộng đều là nguyên nhân dẫn đến t́nh trạng đói nghèo phiêu dạt rối ren. Đưa người làm ruộng về với ruộng đồng theo sự lo toan “người có của thường th́ có ḷng thường”, Nguyễn Công Trứ đă thể hiện tính nhân bản và chính ông là người tiên phong trong sự nghiệp gỡ rối đầu thế kỉ XIX. Nghĩ được. Làm được. Đó là ông và lúc đó, chỉ có ông mà thôi.

Sứ mạng của dân tộc ta ở thế kỉ XIX là củng cố vùng đất đai mới khai phá phía dưới vĩ tuyến 15, giải quyết nạn phiêu tán do nội chiến ngót ba thế kỷ để lại, sát nhập Đàng Trong – một vùng đất, vùng người mới mở mang từ sau thế kỷ XVII với Đàng Ngoài, để xây dựng nền nhất thống quốc gia. Nhà Nguyễn hay một nhà nào khác muốn tồn tại trên tư cách là người đứng đầu nhà nước đều ư thức được sứ mạng lịch sử đó. Từ một cậu học tṛ đă có chuỗi tuổi thơ lang thang bên đồng ruộng Quỳnh Côi, để 38 năm sau trở lại với cương vị là một Doanh Điền Sứ của đất nước, nhà Nho – nhà Nông Nguyễn Công Trứ thích hợp hơn bất cứ một vị quan nào khác. Dẹp Phan Bá Vành là sứ mệnh lịch sử, nhưng biết nh́n nhận đội quân đói rách một thời theo Phan Bá Vành chỉ là nạn nhân tất yếu, với tấm ḷng độ lượng, bao dung để rồi cùng họ cần lao chia sẻ đắng cay giữa vùng đầm lầy bùn sâu nước mặn mà làm nên hạt gạo củ khoai, mới đáng quư biết dường nào. Việc làm này xuất phát từ tư duy khai hoang lập ấp của Nguyễn Công Trứ lúc bấy giờ.

Tiền Hải (Thái B́nh), Hoành Thu, Ninh Nhất (Nam Định), Kim Sơn (Ninh B́nh) ngày nay là sản phẩm trí tuệ, t́nh cảm, tấm ḷng và trách nhiệm của luồng tư duy đó.

Theo nhà địa lư học nhân văn Pháp: Pierre Gourou th́ từ năm 1470 (thời Hồng Đức – Lê Thánh Tông), vùng đông năm châu thổ Bắc Bộ mỗi thế kỉ được biển nhường lại cho đất liền 3 km bề ngang. Có nghĩa là 360 năm đó vùng đất Thái B́nh, Nam Định, Ninh B́nh tiến ra biển được khoảng 11 km. Biển đưa cát lên bờ theo con sóng thủy triều. Sông chở phù sa từ rừng núi xuống theo từng mùa mưa lũ. Luật của tạo hóa khi dữ khi hiền. Đất và nước nơi g̣ cao, nơi đầm rộng là hệ quả của một quá tŕnh bồi lắng tích tụ. Śnh lầy, muỗi ṃng, cây hoang dại… là môi trường làm nên sào huyệt của bọn cướp biển, cướp đồng. Không dễ dàng chút nào. Tự tin và quyết tâm, Nguyễn Công Trứ nán lại khảo sát rồi dâng sớ về triều:

“1. Lập phép nghiêm cấm để trừ dứt trộm cướp (Bắc Thành sau loạn Tây Sơn, tập tục kiêu ngoa, những bọn gian giảo, thấy lợi quên nghĩa, bắt cóc người, đào mồ mả để đ̣i tiền chuộc, tụ tập đồ đảng dọa nạt dân làng, tù trốn th́ lấy nhà cường hào làm sào huyệt, tổng lư cũng lấy kẻ hung ác làm tay chân, để xưng hùng với nhau. Phàm gọi là làm loạn. Ngạn ngữ nói: “Loạn th́ chém” không dùng phép nặng không ngăn được loạn. Xin đặt thêm hương trưởng mỗi làng hai người, để coi sóc nhân dân khiến họ yên nghiệp làm ăn, ai du đảng trộm cướp th́ phải báo quan ngay, nếu dung túng chứa chấp, việc phát giác th́ tổng trưởng, hương trưởng, xă trưởng đều phải chém cả. Phàm cha anh không ngăn cấm được con em th́ cho tự thú cáo trước, nếu giấu giếm đến lúc phát giác th́ phải đồng tội. Như thế th́ không ai dám phạm, mà trộm cướp yên tắt được).

2. Minh việc thưởng phạt để khuyến khích quan lại. (Nay lại dịch tham ô thường làm hại cho dân là bởi chưa có cách khuyên răn. Xin phàm các địa phương, nên thải bỏ những người hèn kém bớt đi một nửa, và cho thêm lương, để giữ thanh liêm; định lệ 3 năm, xét một lần, ai liêm cần th́ được cất nhắc, ai khinh lờn pháp luật th́ không cứ việc lớn hay nhỏ, tang nhiều hay ít, đều trị tội cả, khiến ai ai cũng biết giữ ḿnh. Như thế th́ tham chuyển thành liêm cả).

3. Vỡ ruộng hoang cho dân nghèo. (Đời làm ăn xưa chia ruộng định của, dân có nghiệp thường cho nên ở yên nơi làng mạc không có gian tà. Ngày nay, những dân nghèo túng, ăn dưng chơi không, khi cùng th́ họp nhau trộm cướp, cái tệ không ngăn cấm được. Trước thần đến Nam Định thấy ruộng bỏ hoang ở các huyện Giao Thuỷ, Chân Định mênh mông bát ngát. Ngoài ra c̣n không biết mấy ngh́n trăm mẫu, hỏi ra th́ dân địa phương muốn khai khẩn, nhưng phí tổn nhiều, không đủ sức làm. Nếu cấp cho tiền công th́ có thể nhóm họp dân nghèo mà khai khẩn, nhà nước phí tổn không mấy mà mối lợi tự nhiên sẽ đến vô cùng. Vả lại băi Tiền Châu ở huyện Chân Định hoang rậm, trộm cướp thường tụ họp ở đấy làm sào huyệt, nay khai phá, không những có thể cho dân nghèo làm ăn, lại c̣n dứt được đảng ác. Xin sai trấn thần đến khám xét, phàm những đất hoang có thể khai khẩn được, cho những người địa phương giàu có chia nhau trông coi công làm, mộ những dân nghèo các hạt đến khai khẩn, như mộ được 50 người th́ lập làm một làng, cho làm lư trưởng, mộ được 30 người th́ lập làm một ấp, cho làm ấp trưởng, đều tính đất chia cho. Cấp cho tiền công để làm nhà cửa, mua trâu ḅ nông cụ; lại lượng cấp tiền gạo trong thời hạn 6 tháng, ngoài hạn ấy th́ làm lấy mà ăn, 3 năm thành ruộng, đến chiếu lệ tư điền mà đánh thuế. Quan phủ huyện sở tại lập kho chứa thóc để pḥng năm mất mùa cho dân vay. Những làng ấp mới lập gọi là “quân lực bản”. Phàm các hạt xét thấy những dân du đảng không bấu víu vào đâu, đều đưa về cả đấy. Như thế th́ đất không bỏ hoang, dân đều làm ruộng, phong tục kiêu bạc lại thành thuần hậu).

Nhà vua xem sớ xong giao xuống cho đ́nh thần bàn. Có lẽ đ́nh thần ít thực tế hơn lại nô lệ vào khuôn phép cũ hoặc giả không muốn Nguyễn Công Trứ, mới hàn sĩ xứ Nghệ ngày nào đă có tầm nh́n xa hơn họ, nên đă ṿng vo ngăn cản. Nhà vua Nguyễn Thánh Tổ thực sự muốn dựa vào người tài nhưng lại sợ mất ḷng lớp nguyên lăo đại thần huân cựu đă nhiều gắn bó. Nhưng nhà vua và đ́nh thần đều phải thừa nhận khai hoang lập ấp là biện pháp tốt nhất để ổn định xă hội. H́nh như đă lường được tính kẻ cả và a dua của lớp quan lại đương thời, Nguyễn Công Trứ nêu lên 3 mục để có cái cho người ta bác mà thực hiện một điều. Bởi không bao giờ họ dễ dàng cho cả và cũng không bao giờ bỏ cả. Người có quyền mà tiểu tâm, thường hẹp ḥi pha nặng mùi ích kỉ, thích thể hiện quyền uy. “Ṿng vo tam quốc”, vặn vẹo chỗ nọ, bắt bẻ chỗ kia là bản chất đích thực của loại người này. H́nh như suốt đời làm người họ chưa có một chút vô tư cho sự thiện chí. Cuối cùng Nguyễn Công Trứ nhận được điều thứ ba. Đó là: khai hoang lập ấp. Điều thứ ba được làm cho dù hai điều đầu bị bác, th́ cuối cùng hiệu quả của thực tế cũng sẽ là ba. Cái ṿng vo của bọn quan lại có chút quyền hành mà chưa có nhân tâm chỉ làm cho xă hội bấn lên thôi. Chẳng đáng tích sự ǵ! Kẻ non kém mà tham lam, thường ỷ vào quyền lực. Bởi thế xă hội mới tŕ trệ triền miên.

Dựa vào đ́nh thần lại nhận ra cái tâm, cái tài của Nguyễn Công Trứ, nhà vua Nguyễn Thánh Tổ giải quyết dung ḥa giao cho Nguyễn Công Trứ lănh chức Doanh Điền Sứ. “Việc ấy nửa năm cũng đủ, cần ǵ phải đến 3 năm… Nay các hạt Bắc thành dần yên, nhân dân hơi biết hướng theo giáo hóa có thể nhân cơ hội này, đưa dân về ruộng đất, khiến yên nghiệp làm ăn, dân có của thường th́ có ḷng thường, bọn trộm cướp tất phải tan đi mà ngầm hóa. Vả lại triều đ́nh khai hóa không cái ǵ trước dạy dân chăm nghề gốc. Nay việc dinh điền đă giao cho khanh phàm việc có thể làm lợi trừ hại cho dân, cho tùy tiện mà làm, nên hết ḷng xếp đặt sớm báo thành công, để yên ủi ḷng trẫm mong đợi”.

May là trong sự hẹp ḥi, bẩn thỉu của đ́nh thần ấy c̣n có nhà vua sáng suốt đỡ hẹp ḥi. “Nghèo nàn sinh đạo tặc” là ngạn ngữ tổng kết của dân gian. Nội chiến vương triều dai dẳng 3 thế kỉ qua, đă vứt ra mọi nẻo đường đất nước từng đoàn người phiêu tán lang thang. Làm ǵ để sống qua ngày, nếu không là trộm cướp. Ta thử nh́n vào xă hội ta ngày nay, từ Nhà nước cấp trung ương đến nhà nước cấp tỉnh và làng xă lấy mục tiêu phụng sự người nghèo là vậy, lại đă tắt tiếng súng trọn 30 năm qua mà người lang thang c̣n nhiều. Chiến tranh 30 năm và 30 năm giải quyết hậu quả chưa thật hài ḷng. Huống hồ nội chiến 300 năm, sự tan nát gấp 30 lần, ngày một ngày hai đâu dễ hàn gắn, hăy nh́n lịch sử bằng sự chia sẻ. Đừng nh́n lịch sử dưới con mắt của đấng bề trên để nói cho ra vẻ lập trường.

Có một nhà giáo dạy ở bậc đại học đă đào tạo vài ba chục thế hệ làm thầy viết rằng: “Khi quân Tây Sơn kéo ra Bắc, dân Trà Lũ đă hăm hở hưởng ứng Quang Trung lên ngôi, hàng trăm đinh tráng có mặt trong quân đội của triều đại mới. Tây Sơn đổ, triều Nguyễn thành lập, nạn cướp đoạt ruộng đất của cường hào địa chủ lại diễn ra nghiêm trọng”.

(Phong trào nông dân đầu thế kỉ XIX, trang 97)

Trên đó hai ḍng ông mới viết là “được chỗ ngồi, trôi đất ở”, “trong thôn Đoài ngoài nước mặn”, nhưng đến giữa thế kỉ XVIII, người dân Trà lũ vẫn thiếu ruộng cày”.

Nghĩa là chưa có ruộng. Vậy th́ nạn cướp đoạt ruộng đất nào? Khi quân Tây Sơn kéo ra lần đầu (1786) Nguyễn Huệ chưa lên ngôi. Lần thứ 2 là để giết Vũ Văn Nhậm, cháu rể, khi Nhậm đă vâng lời chú ra giết Nguyễn Hữu Chỉnh xong, Nguyễn Huệ cũng chưa lên ngôi. Lần thứ 3, cuối năm 1788 không phải Quang Trung lên ngôi mà là Nguyễn Huệ lên ngôi đặt niên hiệu Quang Trung. Do đó, Quang Trung là niên hiệu chỉ thời gian của một triều đại. “Khi quân Tây Sơn kéo ra Bắc, dân Trà lũ đă hăm hở hưởng ứng Quang Trung lên ngôi”, th́ cơ hội quá. Viết lấy được như thế e chưa đúng chỗ. Vả lại, những dân miền biển thuở đó, vồn dĩ là những người phiêu dạt từ nhiều vùng đất nước tụ lại, ṃ cua bắt ốc độ nhật thôi. “Được chỗ ngồi trôi đất ở” là vậy. Họ vẫn là “con đỏ” của triều đ́nh thật, nhưng dường như c̣n nằm ngoài ṿng cương tỏa. Na ná như người Đá Vách, bên ngoài cương vực quản lư của triều đ́nh. Lấn chiếm biên cương th́ bị nâng lên tội khởi nghĩa nông dân.

Bởi Trà Lũ có liên quan hệ quả với khai hoang lập ấp của Nguyễn Công Trứ nên tôi muốn tạt qua một chút khi tŕnh bày về t́nh trạng rối ren mà lịch sử để lại cho vùng Trà Lũ cũng như trên toàn bộ vùng châu thổ Bắc Bộ.

Ổn định trật tự xă hội là điều kiện tiên quyết để quản lư xă hội. Đó là một yêu cầu lịch sử. Vậy th́, đưa dân về bản quán, bản thổ, giải quyết nạn phiêu tán lang thang, tổ chức khai hoang lập ấp… nên được coi là nằm trong chủ trương nhân văn, nhân bản, rất đáng hoan nghênh. Trong con mắt đọng t́nh người sâu sắc của nhà Nho – nhà Nông Nguyễn Công Trứ th́ ruộng đất và sức lao động của chính những con người lang thang sẽ là nền móng của sự ổn định. Sơn Nam Hạ - Trà Lũ sau 38 năm trở lại vùng “trong thôn Đoài ngoài nước mặn” ấy đang là một vùng śnh lầy mênh mông. Ruộng đồng sẽ là ở đó. Làng xóm thôn ấp sẽ là ở đó. Ngày mai trong mắt ông sẽ là những làng quê giầu có thanh b́nh. Ông tự nguyện, ông t́nh nguyện làm người tiên phong đi ra hướng biển hoang vu.

Bản sớ dâng lên. Lệnh chỉ hạ xuống. Nhà vua Nguyễn Thánh Tổ cho phép ông “phàm việc có thể làm lợi trừ hại cho dân, cho tùy tiện mà làm”, đồng thời c̣n “Hạ lệnh chọn một viên tư vụ, 10 người bát, cửu phẩm và vị nhập lưu, thư lại đi theo để sai phái”.

Vậy là quan thuộc quyền có tấm ḷng phụng sự. Vua có tầm nh́n tương đắc v́ lợi ích quốc gia đă làm nên sự đồng tâm hiệp lực mở ra những vùng đất mới cho Tổ quốc. Trong chế độ quân chủ tập quyền, mối quan hệ trên dưới được như thế không phải là phổ biến. Hơn nữa, Nguyễn Công Trứ lại mới vào “làng” quan 7 năm. Hiền tài và niềm tin đă đọng lại trong mối quan hệ này.

Tấm ḷng Nguyễn Công Trứ lần đầu tiên trải rộng giữa vùng băi bồi đầm chua nước mặn của xứ Cồn Tiền. Ngót một năm thể nghiệm sức hiểu biết và suy tư của 49 năm bằng những việc làm thực tế, cụ thể. Ước lượng diện tích đất đai, việc làm khó dễ, đất thổ cư, đất mồ mả, đ́nh chùa… để lập làng sao cho công bằng mà có lợi lâu dài về sau. Phân đất có cao, có thấp, có dễ, có khó và làng nào cũng sẽ được hưởng một phần dự trữ đất bồi của biển mai sau. Hướng tiến ra phía biển được thể hiện trong quy hoạch của từng vùng dân cư.

Những dải làng, những con đường liên hương, những ḍng sông đào vừa là ranh giới làng, vừa là tuyến giao thông đường thủy, vừa là ḍng chở phù sa để nâng cao đồng đất và để lấn biển, những bờ đê, những khu chợ… đều in đậm dấu chân trí tuệ và tấm ḷng mẫn cán của một con người. Đức thanh liêm cộng với sự hiểu biết của Nguyễn Công Trứ đă đưa ông đến thành công mỹ măn. Dân tự động lập đền thờ ông là phải lắm. Năm 1955, tôi theo học lớp nghiệp vụ thủy lợi sơ cấp của khu Thủy Lợi Liên khu III (Phủ Lư, Hà Nam), được nghe thầy Đào Trọng Lũy giảng về cách đắp đê biển của Nguyễn Công Trứ. Đi thực tập ở vùng Tiền Hải – Hải Hậu – Kim Sơn, chúng tôi nhận ra ngay những công tŕnh của ông. Đê do Nguyễn Công Trứ cắm tuyến đă nằm sâu trong nội đồng. Những con đê mới, thẳng đẹp nằm bên ngoài th́ đứt găy từng đoạn. Bởi thời ta, hướng tầm ngắm máy niveau theo triền cao mà cắm tuyến. Vị Doanh Điền Sứ thế kỉ XIX đắp đê theo từng độ cung ṿng của sóng. Cung sóng biển cường. Cung sóng biển rặc. Con sóng đi có điểm yếu, điểm mạnh từng mùa. Lấn biển nhưng lại mềm với biển. Nguyễn Công Trứ là thế. Không tức nước. Nên không vỡ bờ. Ông không v́ cái đẹp, cái dễ, cái triền cao gợi ư. Ông cắm tuyến đê theo tính toán của ông. Có lẽ tốn nhiều thời gian cho việc cắm tiêu theo dơi thủy triều mới ấn định vị trí đắp đê. Nhớ lời thầy Lũy, tôi nhận ra tài năng người xưa. Khi viết những ḍng này, thầy tôi, Đào Trọng Lũy cũng đă là người thiên cổ. Chắc thầy đang giảng bài về đắp đê lấn biển của Nguyễn Công Trứ ở thế giới bên kia.

Theo Pierre Gourou th́ năm 360 năm từ 1470 thời Hồng Đức đến 1830 thời Minh Mệnh biển nhường cho đất liền 11 km bề ngang. Vậy là mỗi năm đất châu thổ đông nam Bắc Bộ rộng thệm khoảng 3 km. Sau khi Nguyễn Công Trứ đắp đê lập nên các huyện Tiền Hải (Thái B́nh), Kim Sơn (Ninh B́nh) và các tổng Hoành Thu – Ninh Nhất (huyện Giao Thủy – Nam Định), th́ mỗi năm biển bù cho đất liền 10 km bề ngang (tốc độ bồi lắng gấp 3 lần). Bờ biển thời Nguyễn Công Trứ đắp đê rửa chua, thau mặn (1828) nay đă xa biển vài ba chục km rồi. Như vậy là đất của Nguyễn Công Trứ vẫn mỗi ngày mỗi rộng.

Kết quả đầu tay của công việc khai hoang lập làng của Nguyễn Công Trứ là việc ra đời huyện Tiền Hải. “Một dải Tiền Châu liên tiếp băi biển. trước kia cây cỏ rậm rạp, bọn cướp hay tụ tập ở đấy, không ai dám đến gần. Đă có câu nói “ai dám đến đùa quấy ổ giặc mà chơi”. Lănh dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ đến nơi, chiêu tập phủ dụ ḷng người mới yên. Bèn đem đất Tiền Châu cùng đất đối ngạn bên tả bên hữu đo được đất hoang chia cấp cho dân nghèo, thành 14 lư, 27 ấp, 20 trại, 10 giáp, số đinh được 2.350 người, số ruộng được hơn 18.970 mẫu (Lư 600 mẫu, ấp 400 mẫu, trại 200 mẫu, giáp 120 mẫu. Cứ 100 mẫu trừ đ́nh chùa thổ trạch, đất mạ, đất già (nghĩa địa) 30 mẫu, c̣n thành điền 70 mẫu”.

                                   (Đại Nam thực lục, tập IX, trang 123 – 124)

Kho tư liệu thư tịch không có hoặc giả chưa t́m được các tác phẩm văn học thuộc loại h́nh báo cáo thành tích của Nguyễn Công Trứ, nhưng qua con số cụ thể cứ 10 người lập thành một giáp, 15 người lập thành một trại, 30 người lập thành một ấp, 50 người lập thành một làng. B́nh quân 5 người được cấp tiền mua được một con trâu, một cái cày, một cái bừa, một cái thuổng, một cái cuốc, một cái liềm và 50 mẫu đất. Sách Đại Nam thực lục ghi như sau:

“Về nhà cửa cùng trâu cày nông cụ của dân th́ xin lấy tiền nhà nước chi cấp để dân được yên nghiệp làm ăn. (Tiền nhà cửa mỗi lư cấp 100 quan, mỗi ấp 60 quan, mỗi trại 30 quan, mỗi giáp 20 quan. Tiền trâu cày mỗi lư cấp 300 quan, mỗi ấp 180 quan, mỗi trại 90 quan, mỗi giáp 60 quan. Tiền nông cụ mỗi lư cấp 40 quan, mỗi ấp 24 quan, mỗi trại 12 quan, mỗi giáp 8 quan”.

Qua đó, ta biết Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ phân minh, tận t́nh và trong sáng mẫu mực biết nhường nào. Huyện Tiền Hải ra đời ban đầu có 7 tổng là: Tân Cơ, Tân An, Tân Định, Tân Thành, Tân Hưng, Tân Phong, Tân Bồi (bao gồm 14 làng, 27 ấp, 20 trại, 10 giáp với 2.350 nhân khẩu trên tổng diện tích đất đai là 18.970 mẫu, mà Đại Nam tthực lục đă ghi trên. Huyện lỵ đặt tại làng Phong Lại, tổng Tân Thành (Đông Phong). Đến thời Tự Đức th́ dời sang làng Hoàng Tân, tổng Tân Định (vị trí hiện nay).

Qua địa danh hàng tổng đều có chữ “Tân” (mới), cho phép ta nghĩ rằng các vùng dân cư mới lập này gồm những người nghèo thiếu ruộng ở lân lư sở tại và những người phiêu tán vô gia cư nhiều nơi khác tụ lại dưới sự chở che, bày vẽ của quan Doanh Điền Sứ.

Nguyễn Danh Dương, đương kim tri huyện, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An thuở đó, được nhà vua Nguyễn Thánh Tổ bổ nhậm làm tân Tri huyện, huyện Tiền Hải. Ông là vị Tri huyện đầu tiên của vùng đất mới mở này.

Trong tinh thần hưng phấn chung, Nguyễn Công Trứ kết hợp khảo sát thực địa với công quỹ đang có, tổ chức khai khẩn lập thêm “4 lư, 4 ấp, 1 trại ở 2 xă Ninh Cường, Hải Cát. Xin biệt lập làm 1 tổng thuộc huyện Nam Chân, được 5 ấp 2 trại, 3 giáp ở tổng Hoành Nha, cũng biệt lập một tổng thuộc huyện Giao Thủy. C̣n các ấp trại lẻ tẻ đều theo tổng sở tại mà lệ thuộc”.

(Đại Nam thực lục, tập IX, trang 124)

Tháng 8 năm Minh Mệnh thứ 9 (Mậu Tư, 1828), trên đại thể, việc khai lập huyện Tiền Hải đă hoàn tất. Quan tri huyện Nguyễn Danh Dương đă nhận nhiệm sở, Nguyễn Công Trứ về kinh báo kết qủa và tâu thêm:

“Dân nghèo c̣n hơn 1.000 người xin lănh ruộng hoang để khai khẩn. Trộm thấy ở các huyện Yên Khánh, Yên Mô thuộc Ninh B́nh, cùng chỗ đối ngạn với huyện Nam Chân thuộc Nam Định, một dăi băi biển c̣n nhiều đất hoang rậm cấy lúa được chẳng kém ǵ Tiền Hải. Xin đến đo đạc để lập thành ấp, lư”.

Ông lại được nhận nhiệm vụ mới tiếp tục vận động thu góp dân phiêu tán đến khai hoang vùng biển Ninh B́nh lập nên huyện Kim Sơn. Cũng như ở Tiền Hải, Nguyễn Công Trứ chia dải đất bồi có tên là Cồn Thoi bên ngoài làng Yên Thổ và Ninh Mật (Thổ Mật) thuộc huyện Yên Mô thành từng lô song song đều có “mặt tiền” là bờ biển. Cũng là một kiểu dự pḥng quyền lợi phát triển tương lai cho mỗi làng. Với hệ thống sông đào, đường sá, đê sông, đê biển tạo thành khu dân cư mới như là một mạng lưới “đơm” phù sa tạo nên thế rửa chua, thau mặn tự nhiên và bồi lắng tự nhiên.

Sách Đại Nam thực lục ghi rằng:

“Bắt đầu đặt huyện Kim Sơn, lệ vào phủ Yên Khánh Ninh B́nh. Lănh dinh điền sứ là Nguyễn Công Trứ, ở phía ngoài đê Hồng Lĩnh đo được số ruộng hoang là 14.620 mẫu, chia cấp cho dân nghèo hơn 1.260 người. Lập thành 3 làng, 22 ấp, 24 trại, chia làm 5 tổng, tâu xin đặt riêng một huyện gọi là Kim Sơn, chọn người hợp với địa phương làm tri huyện để phủ dụ khuyên bảo. Nhà ở, lương tháng, trâu cày và điền khí của dân th́ do quan cấp cũng như huyện Tiền Hải…

Vua cho là được. Bèn sai chọn đặt tri huyện, chế ấn triện cấp cho, dựng huyện lỵ ở làng Quy Hậu”.

(Đại Nam thực lục, tập IX, trang 220)

Theo Giải nguyên Lê Thước viết trong cuốn “Sự nghiệp và Thi văn của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ” (Nhà in Văn Tân, Hà Nội 1928) th́ huyện Kim Sơn thành lập gồm có 7 tổng là: Chất Thành, Hồi Thuần, Quy Hậu, Hướng Đạo, Tự Tân, Tuy Lộc, Lai Thành. Tổng mang tên Hướng Đạo bởi đó là nơi vị Doanh Điền Sứ của triều đ́nh, gặp ông Nhương dân sở tại. Ông Nhương đă tận t́nh hướng dẫn Nguyễn Công Trứ đi xem xét thực địa trước khi tổ chức đưa dân đến khai hoang. Vậy là tên mỗi tổng của huyện Kim Sơn đều hàm một nghĩa ghi nhớ như lưu niệm, như hoài băo. 1.000 người nghèo chưa có nơi ăn chốn ở mà Nguyễn Công Trứ tâu với nhà vua đầu tháng 8 năm Mậu Tư (Minh Mệnh thứ 9-1828), có lẽ đại bộ phận là dân Thiên Chúa giáo trót theo Phan Bá Vành nổi loạn, c̣n ngờ sợ đang lẩn tránh đâu đó, chưa dám gia nhập đội quân phát quang mở đất, lập làng ở Tiền Hải, đến lúc này mới thấu hiểu ḷng nhân từ, vị tha của quan Tham tán đại thần đang giữ chức Doanh Điền Sứ, nên lũ lượt đến đăng tên khai khẩn vùng đất mới. “Chất Thành”, “Hồi Thuần”, “Quy Hậu” mang ư nghĩa như là “cải tà quy chính” vậy. Số Giáo dân này là cơ sở cho việc xây dựng các xứ Đạo trên huyện Kim Sơn mà trung tâm buổi đầu là Phát Diệm. Những việc làm của Cha Sáu (Lục) tiếp theo là sự phát triển nâng cao thành quả mà Nguyễn Công Trứ đă đặt nền móng trước đó, trong điều kiện mới.

Điều đáng tiếc là nhà vua dựa vào lời đ́nh nghị của lớp đại thần quan liêu một cách quá máy móc làm hạn chế thành quả mà Nguyễn Công Trứ muốn vươn tới.

Một khu dân cư mới h́nh thành từ nhiều vùng lănh thổ, nhiều lớp người ô hợp, mà tôn giáo, tín ngưỡng không ḥa đồng cần có những bước đi thích hợp để cố kết dân t́nh, dân sinh đều bị triều đ́nh ngăn cản. Đọc lại những điều ghi trong tờ sớ mà Nguyễn Công Trứ đă dâng lên nhà vua Nguyễn Thánh Tổ giữa năm Minh Mệnh thứ 10 (Kỉ Sửu, 1829) và lời đ́nh nghị của các vị đại thần bên vua, ta vừa xót xa cho một thời độc tài chuyên chế vừa nuối tiếc đă bỏ mất quá nhiều thời co làm giàu cho dân cho nước. Bọn bất tài cầm quyền, đau ḷng dân như vậy đó.

Nguyễn Công Trứ lại dâng sớ: “Những làng ấp mới lập của các huyện Tiền Hải, Kịm Sơn đều là nhóm họp dân phiêu lưu chưa có liên hệ với nhau. Xin định quy ước khiến họ biết sự kiểm thúc, lâu sẽ thành quen:

1. Đặt trường học.

Mỗi ấp, mỗi làng đều dựng nhà học, đón một thầy học, làng th́ lấy ruộng 10 mẫu, ấp th́ 8 mẫu làm học điền, miễn đánh thuế. Ruộng học điền ấy, phải góp sức cùng làm, đầy năm thu hoạch, lưu làm học bổng. Người đến 8 tuổi th́ cho vào trường học, dạy cho các việc quét rửa, ứng đối, tới lui, các phép hiếu, trung, tín, kính, nhường, rồi sau mới dạy văn hữu. Đến khi 16 tuổi đă hơi thành tựu th́ theo thứ tự mà cho lên trường huyện, phủ, trấn. Nếu học không được th́ cho đổi nghề khác. Đến như trại giáp th́ một trại lấy 5 mẫu, giáp lấy 3 mẫu mà phụ vào ấp hay làng.

2.. Đặt xă thương:

Ấp và làng đều đặt xă thương, chọn người tin cẩn để giữ, phàm ruộng khai khẩn thành điền, 3 năm về trước c̣n được miễn thuế, th́ mỗi mẫu lấy 30 uyển thóc, đến khi đă thu thuế th́ mỗi năm lấy 20 uyển, nộp vào kho. Khi thóc kém th́ bán ra, khi hơn th́ đong vào. Gặp thủy hạn bất thường th́ chiếu khẩu phần mà cấp cho; năm được mùa th́ lại thu chứa y số.

3. Siêng dạy bảo:

Ấp, làng đều có ấp trưởng, lư trưởng. Lại lấy 25 nhà làm một tư có tư trưởng, làng đặt thêm 2 tư trưởng, ấp đặt thêm một tư trưởng, do quan địa phương cấp bằng, theo các ấp trưởng lư trưởng mà trông nom dân. Trong hạt ḿnh cai quản, như có kẻ bất hiếu, bất để, bất thuận, bất kính cùng là du thủ du thực, giao kết với côn đồ th́ phải nghiêm ngặt răn cấm; ví c̣n quen giữ nết xấu, th́ phải tŕnh với hữu ty xét xử. Nếu dụng t́nh giấu giếm th́ ấp trưởng lư trưởng và tư trưởng cũng phải tội.

4. Cẩn pḥng thủ:

Phàm trong tổng có giặc cướp, phát ở chỗ nào, ở lư th́ lư trưởng cùng tư trưởng, đem dân phu 30 người, ở ấp th́ ấp trưởng đem dân phu 20 người, theo tổng trưởng, đến cứu gấp. Nếu thế lực không địch nổi, th́ phải lẻn theo phía sau, cho kỳ cùng ḍ xem giặc ẩn nấp ở đâu th́ phải phi báo quan sở tại cùng các nơi lân tiếp cùng đến vây bắt cho được, để xử án. Nếu theo bắt bất lực, để bọn giặc chạy xa th́ chiếu số của cải sự chủ mất th́ bắt các ấp lư trong tổng bồi thường. Cai tổng lư trưởng, ấp trưởng, tư trưởng đều theo luật trị tội.

5. Chăm khuyên răn: Dân thường ở ấp lư, có kể không theo phép thường, không chịu làm ăn, đă chuẩn cho ấp lư trưởng được sát hạch, quan địa phương th́ phải thời thường đi tuần xem xét, vào nơi nào, thấy phong tục thuần hậu, ruộng đồng mở mang, nhà không có người ăn chơi, đất không có nơi bỏ hoang, trong 3 năm, người cai quản không can án, th́ cứ thực đề đạt, mà chờ nêu thưởng. Nếu nhân dân lười biếng, đồng ruộng bỏ rậm, tập tục gian dâm, cùng nhau kiên tụng, th́ ấp trưởng lư trưởng đều bị chiếu luật trừng trị, chọn người cẩn tín nhanh giỏi làm thay”.

(Đại Nam thực lục, tập IX, trang 220-222)

Vua giao sớ xuống để đ́nh thần bàn. Ai cũng tỏ ra hiểu biết đồng t́nh nhưng t́m cớ để hạn chế với lí lẽ chưa gấp. Khen để mà ngăn. Nguyễn Công Trứ chua cay trước một sự phủ phàng bởi bọn lạm quyền thiếu hiểu biết. Nhà nước không “mở trường học”, không “đặt xă thương”, không “siêng dạy bảo”, không “cẩn pḥng thủ”, không “chăm khuyên răn” th́ các vị giám mục, linh mục, các nhà truyền đạo làm. Cái được và cái mất, cái lợi và cái hại theo năm tháng đă bày ra đó.

Có thực quyền mà thiếu tri thức, thiếu nhân tâm, thường là thế.

3/4 thế kỉ trước., Lê Thước tiên sinh đă phải chua xót kêu lên:

“Cụ Nguyễn Công Trứ là bậc anh hùng hào kiệt, lập phẩm rất cao, giữ ḷng rất chính, ra ở đời, những muốn lập nên công cao việc lớn, để cứu giúp đời cho nên đă mấy lần dâng sớ, bày tỏ những kế hoạch rất có bổ ích, như trừ giặc cướp, trừ lại tệ, trị hào cường, khẩn đất hoang, lập xă thương, lập hương học… thật rơ là một nhà chính trị, có tài kiến thiết, có chí kinh luân. Tiếc thay sinh phải cái thời đại bế tắc, ở vào cái hoàn cảnh hẹp ḥi, trên vua th́ nghi kỵ, dưới các quan th́ phần nhiều là bọn dung tục, chẳng có tư tưởng ǵ cao thượng, kiến thức ǵ sâu xa, đă không tán thành cho cụ, lại đem ḷng ghen ghét, kiếm cách bắt bẻ gièm pha… Than ôi! Con hạc đứng trong bầy gà, cái trí chúng nó thấp, nên cái bụng chúng nó hẹp ḥi, một người hào hiệp như cụ Nguyễn Công Trứ, chí muốn làm nên những việc kinh thiên động địa, há lại c̣n như tụi tham quan kia”.

(Lê Thước, Sách đă dẫn)

Pierre Gourou, một học giả người Pháp sống gần trọn thế kỉ XX, tác giả cuốn sách Người nong dân châu thổ Bắc Kỳ, đă viết:

“Trước khi nghiên cứu t́nh trạng hiện tại của đất bồi ven biển và khả năng có thể rút ra để đảm bảo một lối thoát cho nạn dân cư quá đông của châu thổ, cần phải nghiên cứu kế koạch khai hoangquan trọng nhất nhằm vào vùng đất bồi ven biển; sự thành lập các huyện Tiền Hải (Thái B́nh) và Kim Sơn (Ninh B́nh).

Công tŕnh này là sự nghiệp lịch sử đầu tiên nhằm vào chinh phục đất bồiven biển nằm ở mức thấp hơn so vớinhững vùng đất bồi ở độ nước triều cao b́nh thường. Vào năm 1828 khi triều đại nhà Nguyễn đă vững bền, người ta quyết định chiếm lĩnh những vùng đất bồi ven biển rộng mênh mông đă được cấu thành, mà thời ḱ rối loạn do thắng lợi ngắn ngủi của Tây Sơn và chiến thắng lâu dài của Gia Long không cho phép khai thác vùng đất đó. Một nhân vật cao cấp, Nguyễn Công Trứ, đă được trao trách nhiệm điều khiển công cuộc khai khẩn, và ông đă xứng đáng với nhiệm vụ đó.

Ông đă chinh phục mấy trăm mẫu đất trong phạm vi huyện Nam Trực và Xuân Trường (Nam Định) ngày nay, 3.500 mẫu ở tỉnh Quảng Yên. Ở đây ông đă mở rộng địa bàn các làng Lưu Khê (tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng)và Vị Dương(nt, nt); nhưng ông tập trung sức lực vào miền sau này trở thành các huyện Tiền Hải và Kim Sơn.

Ở Tiền hải ông lập ra 7 tổng với 60 làng trên một địa bàn trước kia không trồng trọt được và là nơi ẩn náu trên những mô đất cao, của bọn cướp đang bị chính quyền truy lùng; đất đai chưa khai thác này đến lúc này vẫn mang tên Cồn Tiền. Nguyễn Công Trứ cho đo đạc vùng đất khai thác và cấp cho mỗi làng một dải đất kéo dài,thẳng góc với bờ biển và đê biển mà ông sẽ cho đắp, khiến cho mỗi làng đều có thể được hưởng những mối lợi sau này của biển…

Nguyễn Công Trứ lập huyện Kim Sơn vào năm 1829. Nguyên tắc và phương pháp cũng như khi lập huyện Tiền Hải, nhưng việc tổ chức chính quyền sở hữu và lịch sử khai khẩn phức tạp hơn…

Nói tóm lại, công tŕnh của Nguyễn Công Trứ thật là đáng kể; nhờ con người khởi xướng này mà châu thổ đă có thêm 20.656 ha và 117.240 người. Con người này đă không lầm khi đặt cho công tŕnh của ḿnh dưới hai cái tên của sự lớn lao và giầu có: Từ Tiền chỉ tiền bạc, và Kim chỉ vàng, hai từ hợp thành một từ ngữ có nghĩa là sựu giàu có. Cũng như vậy, Sơn có nghĩa là núi và Hải có nghĩa là biển, sơn và hải hợp thành một từ ngữ có nghĩa là xứ sở mênh mông. Tuyệt vời là Tiền Hải (biển tiền) và Kim Sơn (núi vàng) là hai cái tên song song có cùng một ư và có nghĩa là xứ sở mênh mông giàu có.

Thành công của kế hoạch lớn lao này đem lại những bài học: thứ nhất là chỉ nên sử dụng đất bồi ven biển mà sự phát triển của nó đă h́nh thành từ lâu; mặt khác, nhất thiết phải có sự hỗ trợ nghiêm túc của nhà nước về tài chính; phải đào tạo cẩn thận bộ khung của cuộc vận động khẩn hoang; cuối cùng vấn đề tổ chức quyền sở hữu đáng được giải quyết hết sức cẩn thận”.

(Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, Nhà xuất bản Trẻ, 2003, trang 199-204)

Tư duy nông nghiệp h́nh như đeo đẳng suốt cuộc đời làm quan của nhà Nho – nhà Nông Nguyễn Công Trứ. Ngoài chức trách Tổng đốc Hải Yên (Hải Dương-Quảng Yên) lấy việc đắp đê, đào sông làm bổn phận, ông vẫn canh cánh ưu tư bởi những người nghèo và những vùng đất hoang chưa được khai khẩn canh tác. “Hôn nhân” giữa người với đất, dưới tay nhà Nho – nhà Nông làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là những toan tính đẹp. Xem ra ở đâu cũng hữu hiệu, bởi chung thủy, mặn nồng.

Tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 13 (Nhâm Th́n 1832), từ Bố chính mới được cất nhắc lên Tuần phủ Hải Dương kiêm thự Tổng đốc Hải Yên, ông đă kịp quan sát được những vùng đất hoang, băi lầy ven biển Quảng Ninh, rồi sốt sắng dâng sớ về triều xin tổ chức khai khẩn. Điều đáng ghi nhận ở đây là ngoài tư duy khai hoang lập ấp như là thường trực trong tâm hồn, t́nh cảm Nguyễn Công Trứ, ở ông c̣n có độ tinh tế về thế đất, thế dân mỗi vùng mà định ra phương thức thích hợp. Ông không áp dụng chính sách giao đất giao tiền, giao trâu cày, nông cụ cho người làm như Tiền Hải – Kim Sơn, mà đưa binh lính đến đắp đê ngăn mặn, vỡ đất, phát hoang cày cấy đôi ba vụ có thu hoạch chắc chắn rồi mới giao cho dân tiếp tục gieo trồng coi như công điền nhưng được quyền thế nghiệp. Bởi đơn giản là ông đă nhận biết rằng cư dân sở tại chỉ quen nghề chài lưới và làm nghề buôn bán vặt trên sông nước, chưa mấy ai biết vườn ruộng nên lúc đầu rất ngại cấy cày. Có ruộng thục rồi. Có nguồn thu đảm bảo mối lợi rồi mới giao và mới có người nhận. 3.500 mẫu ruộng ở các xă Lưu Khê, Vị Dương thuộc huyện Yên Hưng, An Phong, thuộc huyện Hoa Phong và con đê ngăn mặn dài 2.740 trượng ra đời. Với một thời gian quá ngắn, có lẽ chưa trọn tháng, Nguyễn Công Trứ đă nh́n ra, đă làm được như thế thật khó đối với bất cứ ai chưa đủ ḷng nhân ái và trách nhiệm với đời. Công việc đang có cơ mở rộng diện tích trồng trọt và khu định cư mới th́ vị tân thự Tổng đốc năng động này phải lao vào cuộc dẹp loạn cát cứ trên vùng rừng núi Cao Bằng. Hai năm sau, vào tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 16 (Ất Mùi, 1835), từ chiến trường vừa mới trở về nhiệm sở, Nguyễn Công Trứ đă dâng tập thỉnh an lên nhà vua, có đoạn viết: “Xă Minh Liễn, huyện Nghi Dương, có đến hàng ngh́n mẫu ruộng hoang. Xem địa thế, khai khẩn cũng dễ. Vậy, xin ra lệnh cho mộ binh các vệ chia ban khai khẩn, cấp cho làm ruộng thế nghiệp, rồi theo lệ ruộng tư thu thuế; c̣n những đồ làm ruộng và trâu cày vẫn chiếu lệ doanh điền cấp cho”

(Đại Nam thực lục, tập XVII, trang 76).

Nhà vua hài ḷng. Và, một cánh đồng với một khu dân cư mới ra đời trên đất Hải Dương dưới sự bày vẽ của quan Tổng đốc vốn là một vị tướng có tài thao lược.

Nguyễn Công Trứ, một tấm ḷng, một phương pháp xây dựng các khu kinh tế mới, trước thời đại ngày nay ngót hai thế kỉ mà tính thời sự vẫn c̣n mới.

Tiền Hải, Kim Sơn, Hoành Thu, Ninh Nhất, Yên Hưng, Hoa Phong, Nghi Dương với những cánh đồng bời bời khoai lúa, với những khu dân cư trù mật như c̣n nhắc ta về một thời đă qua và một con người đă qua. Muôn năm những làng quê và muôn năm một tên tuổi: Tồn Chất – Nguyễn Công Trứ.

Những Truy tư từ, những ngôi đền, miếu lập nên thờ ông trên những vùng đất ấy có khi bị đập phá, tưởng đă điêu tàn, nhưng rồi mỗi ngày một mới. Dân ta hay thật. Không tâng bốc khi ông c̣n giữ địa vị cao sang. Không vồ vập khi ông c̣n lên xe xuống ngựa. Chờ ông về nghỉ hưu, đủng đỉnh với mạ ḅ vàng, lang thang đâu đó, mới lập đền thờ sống và chờ ông tạ thế rồi mới thể hiện hết ḷng ḿnh.

Cho đến giữa năm Quư Mùi – 2003 này, những người con ưu tú, hậu duệ của Tiền Hải – Kim Sơn vẫn không quên làng Uy Viễn. Họ như các lớp cha ông xưa, vượt hàng trăm km đường bộ về bên nấm mộ đơn sơ của con người đă một thời làm nên hạt gạo củ khoai đầu tiên ở các vùng cư dân đó, thắp những nén tâm hương tạ Người. Thiết tưởng, tượng đồng, bia đá nào hơn!

“Nhi kim thủy hữu Doanh Điền Sứ

Phụng chỉ khai sơn – hải chi nhàn điền.

Sơn giai kim, nhi hải giai tiền.

Ngưỡng Thánh đức như sơn như hải.

Biển bạc vờn lên tay ngũ bái,

Non vàng đứng dậy chúc tam hô.

Quân ân triêm bái hải trường lưu,

Thần tiết kiên trinh sơn tự tại.

Khai tự cổ bất khai chi Tiền Hải.

Tịch dĩ lai vị tịch chi Kim Sơn.

Phương tri ngă quốc hữu nhân”.

(Công khai thác)


 

IV. NHÀ QUÂN SỰ

 

Tháng 11 năm Minh Mệnh thứ 6 (Ất Dậu, 1825) từ Phủ Thừa Thiên, Nguyễn Công Trứ được điều bổ ra làm Tham hiệp Thanh Hóa. Đến nhiệm sở chưa đầy 2 tháng vị tân Tham hiệp này đă phải tham chiến chống cuộc nổi dậy của Lê Duy Nhiên, Lê Duy Lương ở vùng Ngọc Sơn, Nông Cống. Cuộc đời binh nghiệp của vị danh Nho làng Uy Viễn bắt đầu từ đây. Có người, v́ quá ưu ái nhà Lê bằng cảm tính mà quên mất cái lư phát triển biện chứng của lịch sử, đă cao giọng lên án ông. Có thể đúng, nếu lư sự theo kiểu Bonar Law rằng “Chẳng có chiến tranh nào không tránh được cả. Sở dĩ chiến tranh xảy ra là v́ trí khôn loài người đă thất bại” (1). Trường hợp Lê Duy Lương với cái gọi là giành lại ngôi vua đă mất, sang thế kỉ XIX, không thể được nữa rồi. Một sự bị kích động bởi những kẻ giấu mặt nào đó nằm trong chuỗi âm mưu gây rối theo tâm địa “không được ăn th́ đạp đổ” đấy thôi. Làm vua để trị v́ một nước phải có sự chuẩn bị nhất định. Nước ta, ṇi vua không thuộc riêng một ḍng họ nào. Tính dân chủ nguyên thủy c̣n hằn lên trong việc chọn người lên ngôi vua. Có tài năng, có công lao, có thế lực th́ được giữ vị trí đó. Khi một ḍng họ làm vua đă hết vai tṛ, hăy bằng ḷng với sự sang trang của lịch sử. Bởi vậy, Lê Duy Lương, rồi sau đó là Lê Hoàng (Phan Bá Vành), Lê Văn Phụng (Tạ Văn Phụng)… đều chỉ là chim mồi do những kẻ giấu mặt dựng lên theo toan tính riêng của họ mà thôi. Nhà Lê của thế kỉ XV quả là cứu tinh dân tộc. Nhưng Lê Uy Mục với Mạc Đăng Dung đă làm cái dấu chấm của sự cáo chung triều Lê vào năm Đinh Hợi, 1527. Nhiều lần bởi sự ưu ái của thần dân theo kiểu “phải ḷng mặt” đă giành lại ngôi vua cho nhà Lê nhưng họ Lê đă hết người biết làm vua. Lê Duy Tuấn, Lê Duy Ninh, Lê Duy Bang, Lê Duy Tân, Lê Duy Phương, Lê Duy Kỳ… được trao ngôi vào tay hẳn hoi, vẫn không làm vua được. Lớp hậu duệ nhà Lê không c̣n đủ nghĩa khí, không c̣n bản lĩnh tự ḿnh đứng lên. Nhận xét của Đặng Đức Siêu và Trần Văn Tạc bên cửa Nhật Lệ năm 1802, trước khi Bắc tiến giành lại Thăng Long trong tay Nguyễn Quang Toản là có lư, có t́nh.

“Từ khi vua Lê chạy sang nước Thanh, đi không thấy trở lại, đất Bắc Hà đă lọt vào tay giặc Tây Sơn rồi. Huống chi tự khi quân nhà vua lấy lại đô cũ tới nay, những tôi dân nhà Lê không một người nào ứng nghĩa để đánh giặc, nhà Lê không dấy lại được đă có thể biết rơ rồi. Nay ta diệt được giặc Tây Sơn, chiếm được đất đai, đó là ta lấy ở giặc Tây Sơn chứ không phải lấy ở nhà Lê. Công việc xong rồi, th́ sẽ xử lư”

Nghĩa là có chế độ đặc biệt đăi ngộ con cháu nhà Lê. Nỗi băn khoăn của Nguyễn Phúc Ánh được giải tỏa. Vả lại, họ Nguyễn bền bỉ bỏ ra 10 thế hệ để mở mang xây dựng xứ Đàng Trong làm nên nửa nước. Các lớp hậu duệ nhà Lê chẳng những không đóng góp ǵ trong nửa nước này mà c̣n đă từng cùng chúa Trịnh “nam chinh” diệt Nguyễn.

Trao toàn bộ đất nước cho con cháu nhà Lê bạc nhược th́ việc tranh giành ngôi thứ tất sẽ xảy ra. Nội chiến lại tái diễn. Trao nửa nước (phần Đại Việt) th́ một dân tộc lại có hai Tổ quốc. Nguyện vọng thống nhất của toàn dân sẽ bị tước đoạt. Trí thức và tướng lĩnh thế kỉ XIX mà đại diện là Đặng Đức Siêu, Trần Văn Tạc suy nghĩ, đắn đo như vậy là có cơ sở.

Bởi những toan tính của ai đó qua quá tŕnh mai phục hàng trăm năm chưa nhận được phước lành. Những con chim mồi mang họ Lê v́ vậy cứ dai dẳng được đựng lên. Xét các vụ nổi loạn ở thế kỉ XIX không tính đến nguyên nhân này mà chỉ rập khuôn minh họa luận điểm “có áp bức có đấu tranh”, để coi tất cả là khởi nghĩa nông dân, sao tránh khổi hồ đồ.

Cương vị, thẩm quyền của Tham hiệp là cùng với Trấn thủ dẹp loạn, an dân. Việc ông làm nên được coi là bổn phận. Nguyễn Công Trứ cũng như phần đông người đương thời không thể thừa nhận một Lê Duy Lương vô danh tiểu tốt nào đó bỗng dưng nhảy lên ngai vàng. Người đáng đ̣i ngôi vua chỉ có thể là con cháu Ngô Quyền. Ngoài ra th́ nên để lịch sử thu xếp. Từ nhận thức như vậy, với vị thế Tham hiệp, ông không tham gia cùng Trấn thần Thanh Hóa dẹp loạn, yên dân trên địa bàn ḿnh cai quản là không làm tṛn sứ mệnh được giao.

Tiếp đó, ông lại phải chỉ huy một cánh quân chống nhóm bạo loạn do Ninh Đăng Tạo cầm đầu hoạt động ở vùng giáp ranh giữa các huyện Đông Thành, Quỳnh Lưu (Nghệ An) Ngọc Sơn, Nông Cống (Thanh Hóa). Tuy mới đến nhậm chức, chưa thông hiểu địa bàn nhưng ở vị thứ thống thuộc, tác chiến hợp đồng, Nguyễn Công Trứ cũng đă thể hiện bản lĩnh quân sự của ḿnh. Toàn thắng, ông cùng Nguyễn Văn Hiếu, trấn thủ Thanh Hóa, Trương Văn Minh, trấn thủ Nghệ An, Nguyễn Đức Nhuận, Tham Hiệp Nghệ An được nhà vua Nguyễn Thánh Tổ ban khen. Cuối tháng 6 năm Bính Tuất, 1826 Nguyễn Công Trứ phải về quê chịu tang mẹ. Tháng 10 cùng năm, ông vào kinh bệ từ nhà vua, lại được phái ra Thanh Hóa tiếp tục giữ chức Tham hiệp.

“Trước kia hai trấn Thanh Nghệ trộm cướp nổi nhiều, v́ trấn thần vỗ về chống giữ có phương pháp, dân nhiều người ra sức, bắt được 8, 9 phần 10 kẻ phạm, như thế th́ dân ta có phụ ǵ triều đ́nh đâu. Nay ngươi đến bảo rơ đức ư của triều đ́nh, chiêu tập những dân xiêu tán, tiểu trừ những đảng giặc sót để cho biên phương yên lặng lâu dài, ấy là điều Trẫm mong đợi”

Thời gian này dưới danh nghĩa được gán lấp lửng Lê Hoàng - Phan Bá Vành, Nguyễn Hạnh liên kết với nhóm hải phỉ người Thanh quấy rối vùng ven biển đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Nguyễn Công Trứ lại nhận chỉ đi thẳng ra Thăng Long với cương vị là Thị lang quyền biện H́nh Tào Bắc thành, cùng Nguyễn Đức Nhuận, Thị lang quyền biện Binh Tào phối thuộc quyền Hiệp Tổng trấn Nguyễn Hữu Thận và Tiền phong đô thống chế Trương Văn Minh, tiểu trừ nội loạn. Cái gọi là “một điểm đen trong toàn bộ cuộc đời Nguyễn Công Trứ” mà vị hoa tiêu lịch sử của nửa cuối thế kỷ XX nêu lên cho các thế hệ thừa kế phát triển, chính là việc dẹp loạn an dân này của ông. Đă đến lúc b́nh tâm rồi, ta nên coi lại. Với cương vị của một đại thần dưới quyền vua và với mục tiêu v́ một đất nước Đại Nam nhất thống, hùng cường, Nguyễn Công Trứ cũng như những tướng lĩnh khác không tham gia giải quyết xung đột do Phan Bá Vành, Nông Văn Vân làm dấy lên, dân tộc ta sẽ đi đến đâu? Mầm loạn ấy phải được nh́n từ những nguyên nhân sâu xa mới t́m ra tiếng nói chung một cách khách quan thỏa đáng. Ta đă quen vũ đoán. Nói khác hơn, ta đă lập cho ḿnh phương pháp luận sử học theo khuôn mẫu tam đoạn luận: Có áp bức, có đấu tranh. Vậy là mọi cuộc đấu tranh đều cho v́ bị áp bức. Thật tội nghiệp. Có thế thật. Nhưng không phải tất cả đều thế. Có cuộc đấu tranh v́ lẽ khác. Tôi coi cuộc nổi loạn mà Phan Bá Vành được đẩy ra phía trước thuộc lẽ thứ hai này. Ông ta cũng chỉ là một loại Tạ Văn Phụng sau đó 35 năm ở vùng đông – bắc nước ta mà thôi. Tôi nói Phan Bá Vành được đẩy ra phía trước, bởi ông ta hung bạo và biết cầm quân. Một thời ta quen xưng tụng khởi nghĩa nông dân thành thử bị bệnh hội chứng khởi nghĩa. Nên chi hễ thấy ăn cướp giết người y như là ca ngợi khởi nghĩa nông dân.

Pierre Gourou viết rất thực rằng: “…trên một địa bàn trước kia không trồng trọt được và là nơi ẩn náu trên những mô đất cao, của bọn cướp đang bị chính quyền truy lùng;… gọi là Cồn Tiền” (Sđd, tr200).

Trong “bọn cướp đang bị chính quyền truy lùng” có những kẻ lại được ai đó lưu ư. Chuyện sẽ dài ḍng, nhưng đă trót dây vào th́ phải bàn cho ra lẽ. (Cũng xin mở ngoặc nói trước rằng, với bất cứ tôn giáo nào tôi cũng đều kính trọng, không hề có định kiến. Bởi tôi cho rằng tôn giáo là đạo. Tôn giáo lớn th́ đạo lớn. Có đạo là có hướng thiện. Chỉ giận những ai lợi dụng sự hướng thiện đó cho ư đồ riêng tư của ḿnh mà thôi).

Lịch sử cụ thể diễn ra trên đất nước ta vài ba trăm năm trước, thấp thoáng đó đây bóng dáng của một số người truyền giáo ở một vài vùng quê đôi khi làm ta không yên tâm, không hài ḷng. Vào các thế kỉ trước, phương tiện giao thông đi lại giữa các lục địa chưa như ngày nay. Tàu thủy viễn dương dường như chiếm ưu thế tuyệt đối. Các nhà truyền giáo nôn nóng phát triển nhanh, mạnh đạo của ḿnh bởi ước mơ hoàn vũ, phải dựa vào thương thuyền mới đi được xa. Chủ thuyền, trùm thương lái, ưu đăi các nhà truyền giáo bằng nhiều h́nh thức như bao ăn, miễn cước phí người, hành lư và cả súc vật mang theo. Những người được hưởng ân huệ quá hậu đăi ấy, cũng tự ḿnh t́m ra một vài cách đền đáp. Nhà truyền giáo trở thành người truy lùng hàng hóa, t́m kiếm thị trường, tham gia trực tiếp vào việc mua rẻ bán đắt. Dưới con mắt thường dân, nhà truyền giáo chính là lái buôn, không mấy được cảm t́nh. V́ thế trên bước đường hành đạo không phải ở đâu cũng suôn sẻ, dễ dăi như cho người ta vài ba gói kẹo là xong. Bởi những lư do này, lư do khác họ có gặp trở ngại và khó chịu. Lẽ ra tế nhị t́m ra nguyên nhân, trước hết là về phía ḿnh, th́ họ lại ỷ thế mạnh, của đội quân viễn chinh. Có nhà truyền giáo kiêm thương gia trở thành tiền trạm như là những nhà t́nh báo chiến lược. Hiện tượng đó, đúng như F.Charles Rour đă từng viết trong Nouvelle Revue Francaise d’Out re-Mẻ: “Đó là những đường song song, trái với mọi định luật h́nh học, thường gặp nhau” (nguồn Cao Huy Thuần). Đường song song gặp nhau chính là nhà truyền giáo, lái buôn và quân viễn chinh xâm lược chung một hành tŕnh để tiến đến một mục đích: Thôn tính. Điều này, một thời ở nước ta, các nhà truyền giáo thường ngang nhiên như thế. Ví như vào năm Minh Mệnh thứ 6 (Ất Dậu, 1825), tàu chiến Thetis của Pháp cập cảng Đà Nẵng, cho Giáo sĩ Rogerot lên bờ ngang nhiên đi giảng đạo, không thèm đếm xỉa ǵ đến chủ quyền của một quốc gia độc lập. Việc làm thiếu văn hóa sơ đẳng này, đă làm cho nhà vua Nguyễn Thánh Tổ nổi giận buộc ḷng phải ra dụ “cấm đạo”. Lẽ ra những nhà truyền giáo lấy đó làm một lời răn th́ trái lại họ giận dữ xúi dục nhiều vùng có giáo dân nổi loạn. Phan Bá Vành từ trong đám cướp đang hành nghề và ẩn náu trên băi hoang Cồn Tiền được mời lên và được đưa ra nước ngoài huấn luyện để cùng ném về với Nguyễn Hạnh, chỉ huy “cuộc khởi nghĩa nông dân Trà Lũ”, mà một vài tác giả đă say sưa ngợi ca.

Ba mưới năm sau vụ Phan Bá Vành (1827-1857), qua linh mục Huc, giám mục P.Penllrin, linh mục Legrand de la Liraye, với kế hoạch thôn tính nước ta bằng ba bước, mọi chuyện dường như không c̣n che giấu và không cần phải tốn giấy mực tranh căi nữa.

1- Chiếm Phú Quốc, Cam Ranh, Đà Năng, Cửa Cấm.

2- Chiếm Hội An, Cù Lao Chàm, Nam Hải Vân.

3- Cuối cùng là tối hậu thư buộc triều đ́nh Huế nhận một trong hai điều: Liên minh tự vệ (có nghĩa là đầu hàng nhận bảo hộ) hoặc tấn công lật đổ để lập nên một triều đ́nh thân/của Thiên Chúa giáo. Nhưng linh mục Legrand đă không tin vào khả năng triều đ́nh Huế có thể dễ dàng thỏa hiệp nên đă đề nghị dùng vũ lực đánh chiếm.

“Theo thần, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh tại nước đó. Cần phải chấp nhận nó v́ đó là cách tốt nhất phải đánh gấp ở Bắc Kỳ, Huế, Đà Nẵng cùng một lúc được th́ lật đổ Chính phủ, bàn đến chuyện giải phóng hai dân tộc thua trận ở Cochinchine và đặt lên ngôi ở Bắc Bộ, một kẻ giả danh là con cháu nhà Lê”(nguồn Cao Huy Thuần).

Lê Duy Lương, Lê Hoàng (Phan Bá Vành), Lê Văn Phụng (Tạ Văn Phụng)… trước đó đều nằm trong sự chuẩn bị theo toan tính dạng này.

Kể từ năm 1533, khi con tàu Ignatio mang nhà truyền giáo châu Âu đầu tiên có tên là I-nê-khu (theo Trần Trọng Kim) có lẽ là Inigo  (Ignace, theo Pierre Gourou) đổ bộ lên bờ biển Sơn Nam Hạ, th́ Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ đă trở thành cơ sở của Hội truyền giáo nước ngoài lập lên được ở Bắc Kỳ. Linh mục Alexandre de Rhodes người xứ Avignonais (Pháp), được coi là vị linh mục tiên phong hướng sự chú ư của đội quân viễn chinh Pháp đổ bộ vào Đông Dương tiếp bước củng cố các địa chỉ truyền giáo trên. Francois Ballu và Lambert de la Motte là hai vị đại diện Tông ṭa kế tục con đường mà linh mục Alexandre de Rhodes đă vạch ra. Trà Lũ, Quần Anh, Ninh Cường, là “bến đỗ” ban đầu, nhanh chóng trở thành “bệ phóng” của hội truyền giáo nước ngoài. Bởi vậy, đến thập kỷ 50 của thế kỉ XVIII, các địa chỉ này đă trở thành trung tâm của đạo Cơ đốc xứ Bắc Kỳ. Chỉ thế thôi, ta đủ rơ Trà Lũ là ǵ đối với Hội truyền giáo nước ngoài. Trà Lũ là ǵ đối với Phan Bá Vành vào những năm cuối thập kỷ 20 của thế kỉ XIX. Vấn đề vốn đơn giản. Trước hết hăy nên hiểu là từ năm 1553 đến năm 1857 với một chuỗi hoạt động truyền giáo hăm hở, bất chấp luật lệ một quốc gia bản xứ có chủ quyền, Hội Thừa sai Paris đă có tiếng nói công khai như thế. Lẽ nào ta quên mất vị trí Trà Lũ với Lê Hoàng – Phan Bá Vành.

Theo giáo sư Nguyễn Văn Kiệm, th́ cuốn sách “Những thư chọn trong các Thư chung các đấng Vica’rio Aposto’lico và Vica’rio Provinciale về ḍng ông Thánh Dumingo đă làm từ năm 1759” được viết tại Trà Lũ (Nam Định) ngày 7-6-1759 và được xuất bản tại Kẻ Sặt (Hải Dương) năm 1903.

“Đạo Thiên Chúa được truyền bá vào Việt Nam là một chi phái của Cơ đốc giáo trực thuộc Ṭa thánh La Mă. Chi phái này tự hào là chi phái trung thành nhất với Cơ đốc giáo nguyên thủy. Họ tự nhận rằng đạo của họ là tôn giáo siêu việt nhất và mang tính hoàn vũ nhất so với bất cứ tôn giáo nào. V́ vậy, ở những nơi truyền đạo, họ không khoan nhượng đối với bất cứ loại h́nh tôn giáo hay tín ngưỡng bản địa nào, nghĩa là họ chủ trương xóa sạch mọi tôn giáo, tín ngưỡng bản địa để thay thế bằng tôn giáo mới: Đạo Thiên Chúa…

Một tôn giáo xa lạ như vậy lại được truyền bá vào một quốc gia đă có một nền văn hóa khá phát triển với những tín ngưỡng bản địa sâu sắc như ở nước ta mà những nhà truyền giáo lại ban hành những điều răn dạy đă dẫn ở trên cho giáo dân th́ thật là cực đoan, ngạo mạn và hết sức chủ quan. Những điều răn dạy ấy được thực hành triệt để sẽ tách giáo dân ra khỏi ḷng dân tộc và biến họ thành những kẻ xa lạ.

Trong thực tế ở những địa phương có đạo đang thịnh hành lúc đó, giáo dân đă và phải thi hành triệt để những điều răn dạy này, khiến cho sinh hoạt xă hội và tinh thần ở đây mang một bộ mặt khác hẳn, rất xa lạ với đời sống của cộng đồng đă sinh ra họ.

Song lư do cấm đạo Thiên Chúa cơ bản nhất, có cơ sở nhất, chính là mối lo của Nhà nước Nguyễn về sự đổ vỡ của một trật tự xă hội đă được họ dày công vun đắp, về sự phai lạt đi đến tiêu vong những tín ngưỡng và tập tục truyền thống tiêu biểu cho sắc thái riêng của nền văn hóa dân tộc, về sự đe dọa nghiêm trọng đến uy tín và lư do tồn tại của Nhà nước đang nắm chính quyền, nếu để cho Thiên Chúa giáo được tự do truyền bá ở nước ta.

(Xin lỗi tác giả. Tôi hoán vị trên dưới đoạn này để tŕnh bày suy nghĩ của tôi trước vấn nạn hội chứng khởi nghĩa nông dân, MKỨ)

V́ vậy trong tất cả những lời khuyến cáo cũng như trong các sắc chỉ cấm đạo của các vua nhà Nguyễn, lúc nào cũng thấy họ nêu lên vấn đề đạo lư, đương nhiên là đạo lư Khổng Mạnh, đang bị đảo lộn và phong hóa, tức là tín ngưỡng và nếp sồng văn hóa truyền thống của nhân dân ta, đang bị suy đồi bởi tác động của niềm tin Thiên Chúa giáo”.

(Xin đọc bài “Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX”, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6(271)/1993. V́ sợ phạm tội đạo văn, tôi chỉ xin trích chừng đó, dẫu biết cũng đă quá dài. Nếu được phép tác giả, tôi xin in toàn bài vào phần phụ lục).

Điều mà hơn nửa thế kỉ qua không ít lời b́nh luận, phê phán, nhất là sau khi vị hoa tiêu lịch sử ở nửa sau thế kỉ XX coi đó là “một điểm đen trong toàn bộ cuộc đời Nguyễn Công Trứ” thường là ở lĩnh vực này. Với hiểu biết của ḿnh, tôi lại nghĩ khác. Bởi tôi không coi việc cầm quân của ông là đàn áp phong trào nông dân. Một con người nhà nông trong ông, nếu ông nhận ra cuộc khởi nghĩa nông dân chân chính, hẳn là ông đă nhảy về phía họ. Ông không coi đối phương của ḿnh là bạn, th́ với chức trách và tư cách người làm tướng đương nhiên là phải hành động theo mệnh lệnh của triều đ́nh. Khác đi, có nghĩa là tự sát. Ta th́ quên. Nhưng ông, cha ta th́ theo dơi rất sát từng bước đi của các vị khách nước ngoài không mời mà đến. Inigo (1533); Baldiontti (1622); Alexandre de Rhodes (1627); Francois Ballu, Lambert de la Motte (1658); Pigneau de Behaine (1784), Rogerot (1825), P.Pellẻin (1857)… Tính trường kỳ mai phục của Hội truyền giáo nước ngoài quả là công phu. Nguyễn Phúc Ánh đứng lên được cũng có nghĩa là công cuộc Phúc âm hóa của Hội Thừa sai Paris trên toàn cơi nước ta đă nằm trong tầm tay. Đến đây, ư đồ và quá tŕnh thực hiện tưởng đă trăm phần như ư. Điều không hay cho Hội truyền giáo nước ngoài là Bá tước De Conway, Toàn quyền tại lănh địa Ấn Độ thuộc Pháp không chấp nhận thực hiện Hiệp ước 1787. Hai chứng nhân của Hiệp ước 1787 là giám mục Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc – L’ eveque d’ Adran) th́ đă chết trước cửa biển Thi Nại (Quy Nhơn) năm 1799 và Hoàng tử Cảnh bị đậu mùa quá đời tại Gia Định năm 1801. Nhóm Olivier, Chaigneau, Vanner, Dayot, Forsans …chỉ là những tên lính đánh thuê, không đủ tư cách đại diện cho bất cứ ai. Mặt khác Hiệp ước 1787 cũng đă chết non trước khi Napoleon III muốn dùng nó như là điều kiện tiên quyết để chiếm Côn Đảo, Đà Nẵng làm bàn đạp đánh chiếm Đông Dương. Lá bài duy nhất c̣n lại để thực hiện mưu đồ thôn tính Việt Nam là 600.000 con chiên ngoan đạo mà Hội truyền giáo đă ươm trồng trong suốt 324 năm (1533-1857).

Ngày 19 tháng 12 năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Măo, 1819) nhà vua Nguyễn Thế Tổ băng hà. Thái tử Nguyễn Phúc Kiểu (Đảm) một tín đồ trung thành tuyệt đối với học thuyết Khổng – Mạnh nối ngôi, trước nỗi thất vọng của các nhà truyền giáo nước ngoài. Toan tính thay vị tân vương này bằng một người dễ thỏa hiệp hơn được ráo riết thực hiện bằng nhiều h́nh thức và trên mọi miền đất nước ta. Chiêu bài phục hưng vương triều Lê là điều đắc sách dễ tập hợp lực lượng nhất, lại che dấu được chân tướng của những người đề xướng.

Năm Minh Mệnh thứ 6 (Ất Dậu, 1825) tàu buôn Thetis ghé vào cửa biển Đà Nẵng để giáo sĩ Rogerot nhảy lên bờ ngang nhiên đi truyền giáo không thèm đếm xỉa đến luật pháp và chủ quyền quốc gia của nước sở tại. Hành vi thiếu văn hóa như thế đương nhiên phải bị trục xuất. Nguyễn Thánh Tổ hay bất cứ một vị vua nào khác, v́ ḷng tự tôn dân tộc đều phải xử sự như vậy. Điều đáng tiếc là các nhà truyền giáo đă không rút kinh nghiệm, mà v́ tính ngạo mạn, kẻ cả của ḿnh đă phát động gây rối trên quy mô lớn; phạm vi rộng dưới chiêu bài giành lại ngôi vua cho nhà Lê.

Say sưa với khởi nghĩa nông dân, tác giả cuốn “Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX” để lọt ra một số chi tiết khá thú vị. “Bá Vành… lúc đầu nhóm đảng ở bờ biển cướp phá… nghĩa quân “đầu tiên thường hay qua lại cửa biển Ba Lạt”. Như vậy, trong thời gian đầu nghĩa quân hoạt động chủ yếu ở vùng ven biển huyện Giao Thủy và một số thôn xă lân cận như Hoành Nha, Hội Khê, Yên Bồi, Trà Lũ… rồi lan dần ra vùng núi Núi Voi, An Lăo (Kiến An)… đến đời Minh Mạng, Hạnh cùng Phan Bá Vành vượt biên giới trở về Bắc Kỳ” (trang 79). Chỉ thế thôi tôi lại liên tưởng những toán biệt kích được ai đó t́m tuyển, đưa đi huấn luyện tại một căn cứ nào đó ở nước ngoài rồi ném về. “Trần Bá Hựu… người xă Trà Lũ, rước Ba Vành về đóng tại làng chống lại triều đ́nh” (trang 80). “Vậy th́ khi cuộc khởi nghĩa phát triển đến đỉnh cao ở những năm 1825, 1826, Phan Bá Vành đă 36, 37 tuổi. Một số cụ già ở xă Quần Phương Trung nghe các bậc tiền bối truyền rằng: Khi kéo về làng Quần Anh, Ba Vành đă ngót 40 tuổi” (trang 89).

Như mọi người Việt Nam đều biết Quần Anh, Ninh Cường, Trà Lũ là ba cơ sở Cơ đốc giáo sớm nhất, lớn mạnh nhất Bắc Kỳ thuở đó. Vấn đề là ai đă t́m được tướng cướp Phan Bá Vành trong vùng đầm lầy Cồn Thoi, rồi gửi ông ta ra nước ngoài huấn luyện để ném về Bắc Kỳ cũng Nguyễn Hạnh?

Có điều hơi lạ nữa là, một cuộc “khởi nghĩa nông dân” làm rung chuyển cả triều đ́nh như tác giả “Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX” mô tả lại không biết tung tích thủ lĩnh Hạnh của ḿnh. Thưa tác giả, chỉ có bọn thảo khấu mới giấu quê cha đất tổ mà thôi. Khởi nghĩa nông dân chân chính không bao giờ như vậy.

Đối chiếu những điều vừa nêu trên với ghi chép của Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam thực lục (tập VIII), rằng “Giặc lấy quân ô hợp liều ḿnh, khi lâm trận th́ dẫu đàn bà con gái cũng cầm dao cầm mác mà đánh… các toán giặc như tổ ong, hang kiến, toán nào riêng toán ấy” (trang 218). Nhà vua Nguyễn Thánh Tổ hỏi Nguyễn Đức Nhuận về tính liên kết giữa các xứ “có thông đồng với nhau không”, ư chừng ông đă biết tính chất và lực lượng tham gia. Kết nối các nguồn tư liệu trên với địa danh “Đấu Đong Quân” và nhân vật “ông Tống Lương”, “ông bắt lương” (Hai Đáng, người Trà Lũ), thủ lĩnh thứ tư của “nghĩa quân”, như gợi lên nghĩa vụ đóng góp của mỗi xứ họ mà tác giả “khởi nghĩa nông dân” cung cấp, tôi cứ ngờ ngợ như chuyện mới xảy ra ngày nào. Khởi nghĩa nông dân không ai làm thế. Phải chăng dân ta thuở đó bị sách động bởi những tín điều quá lư tưởng lại bị cưỡng ép, đă hành động liều lĩnh, mù quáng theo tính hung bạo của Phan Bá Vành, Nguyễn Hạnh, Ba Bất, Hai Đáng… Lỗi đó, trước hết là do những người đứng phía sau “hậu trường” gây ra.

Nguyễn Công Trứ với tư cách là Thị lang quyền biện H́nh Tào Bắc thành hiểu biết khá tinh tế nguyên nhân và lực lượng gây rối. Khoanh vùng, phân loại với chủ tâm ít tốn xương máu hai bên nhất. Từ trên diện rộng quân đội triều đ́nh đă bủa vây gom dần không gian và phân hạng, loại dần lực lượng tham gia. Không tổ chức giàn trận đọ gươm súng tràn lan mà chỉ mai phục vây ép để những người bị buộc phải tham gia, có cơ hội bỏ cuộc trước. Số người tham gia nổi loạn từ 5.000 lúc đầu nhờ thế rơi rụng dần cho đến khi chỉ c̣n vài trăm th́ mới tổ chức tấn công quyết liệt nhằm vào tên đầu sỏ Phan Bá Vành để kết thúc trận đánh. V́ thế ngay sau đó những người thua cuộc chẳng những không thù giận Nguyễn Công Trứ mà c̣n tự nguyện theo ông sang Kim Sơn khai hoang. Họ là những người lập nên giáo xứ Phát Diệm và đồng thời góp phần lập nên Truy Tư từ thờ sống Nguyễn Công Trứ ngay trên quê hương mới.

Tôn giáo vốn vô tư, hướng thiện, nhưng nếu bị lợi dụng th́ dễ trở thành tai họa khôn lường.

Trong cuộc vận động Napoleon III thôn tính Việt Nam, vào năm 1857 Giám mục Pellerin, Linh mục Huc và Linh mụcn Legrand quả quyết nói: “Chắc chắn người Pháp sẽ được sự giúp đỡ và hợp tác của người Thiên Chúa giáo Việt Nam. T́nh hữu nghị lâu đời của Pháp… đă được giữ ǵn và lưu truyền bởi 600.000 con chiên tuyệt đối trung thành với các người truyền giáo” (nguồn Cao Huy Thuần).

Đến đây, các nhà truyền giáo nước ngoài của Pháp đă bỏ xa con đường hành dạo chân chính làm mất đi tính vô tư, hướng thiện vốn là bản chất đích thực của Cơ đốc giáo chính thống. Họ không chỉ “là những con đường song song, trái với mọi định luật h́nh học” như F.Charles Rour viết, mà đă chồng lên nhau. Tên cướp biển Tạ Văn Phụng được đưa ra nước ngoài huấn luyện một thời gian, trở về phục vụ dưới trướng Đề đốc Rigault de Genouily đánh chiếm Đà Nẵng (1858), rồi nhanh chóng nhận tên mới là Lê Văn Phụng, ra Đông – Bắc dựng cờ “minh chủ” nhà Lê. Một Phan Bá Vành nữa lại làm triều đ́nh hao binh tổn tướng quá nặng, quá đau giữa hàng vạn tàn quân “Thái b́nh thiên quốc” giả vờ cùng đường tràn qua đất nước ta.

Nguyễn Công Trứ không tử trận, lại nghĩ đến những con người nghèo khổ, nghĩ đến đất đai nơi ḿnh tham chiến. Ông đă dâng sớ xin được ở lại. Tiền Hải (biển tiền), Kim Sơm (núi vàng) cùng Hoành Thu, Ninh Nhất chững chạc đứng lên. Giá như trong cuộc đời này, ở đâu cũng phủ đầy thiện chí th́ đẹp biết nhường nào!

Bởi những tháng ngày lăn lộn trên thực địa với các tướng quân khác áp dụng sách lược giải quyết vụ nổi loạn Phan Bá Vành ít tốn xương máu nhất và sau đó là quá tŕnh đo đất chia cho dân, Nguyễn Công Trứ nhận thấy thế pḥng thủ bờ biển ở đây không c̣n thích hợp (có lẽ do băi bồi đă đẩy đồn biên pḥng Liêu Lạc cũ quá sâu so với việc canh pḥng mặt biển) nên đă thượng sớ về triều:

“Từ trước đến nay, thủ sở đặt ở xă Quần Liêu, cách biển đă xa, binh giữ lại ít. Nếu thấy giặc biển, tất phải phi báo, đợi được thủy binh thành, trấn tới nơi th́ bọn giặc đă lăng đi về phía đông rồi. Thế là nơi quan yếu chỉ là đặt khống, giặc biển không yên được là v́ đó. Thần từng đi qua nơi ấy, từ đồn Liêu Lạc trở xuống ước hai dặm, có một dải phù sa gọi là Đột Châu có thể đóng đồn được. Từ đấy đến biển chỉ chốc lát. Ở cḥi canh trông bốn bề xa đến đâu cũng thấy. Xin dời đồn Liêu Lạc đến đặt ở đấy” (IX, trang 289).

Chỉ một việc nhỏ đó thôi, tính mẫn cảm trách nhiệm và năng khiếu quân sự đă thể hiện trong con người nhà Nho này. Đến tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 13 (Nhâm Th́n, 1832), từ Lang trung Nội vụ, Nguyễn Công Trứ lại được bổ nhậm chức thự Bố chánh Hải Dương, đến tháng 9 cùng năm th́ được nâng lên làm tuần phủ kiêm giữ ấn quan pḥng Tổng đốc Hải – Yên (Hải Dương – Quảng Yên). Tư chất quân sự của ông bắt đầu được thi thố trong thời gian này. Hải Dương, Quảng Yên thuở đó bao gồm toàn bộ vùng Đông – Bắc nước ta, là cái rốn của sự rối loạn bởi thù trong giặc ngoài đủ loại. Tàu Ô và đồng bọn Tề Ngôi xưa đă từng lấy nơi đây làm sào huyệt vẫn tiếp tục thu dụng tàn quân của các cuộc nổi loạn đă bị dập tắt. hải phỉ, phần đông là người nhà Thanh, tránh nước họ, cũng tràn qua. Những toán biệt kích do nước ngoài huấn luyện được ném trở về. Những tên du thủ, du thực, tù trốn trại đủ các loại “thượng vàng hạ cám” cũng trôi dạt đến chân trời góc biển này… Một vùng vịnh giáp ranh, một vùng núi giáp ranh, đầy âm mưu lấn chiếm ŕnh rập, thật khó cai quản của chính quyền sở tại.

Sau 30 năm thiết lập vương triều Nguyễn, qua thời Gia Long đến giữa thời Minh Mệnh, hầu như chưa có vị quan nào thành sự ỏ vùng đất này. Với việc dẹp loạn yên dân ở Trà Lũ và thành lập hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn, nhà vua Nguyễn Thánh tổ đă nh́n ra tài năng Nguyễn Công Trứ. Nhưng, nếu cứ vậy mà phát huy, người đứng đầu triều đ́nh sợ khó chế ngự về sau. Những thử nghiệm nhào nặn để dùng con người này vào chỗ cần dùng được bắt đầu. Từ Hữu Tham tri (thứ trưởng), chỉ v́ một cớ mọn đề xuất Phí Quư Trị vào chân Huyện thừa (mà cũng chỉ mới đề xuất thôi, đâu đă quyết định), vậy mà nhà vua lại căn cứ vào lời thêu dệt của nịnh thần Hoàng Quưnh, cách tuột ông xuống Tri huyện kinh. Nghĩa là Tri huyện không cai quản ai cả. Một con người tài năng như thế, nhân cách như thế, công lao như thế, cách tuột trắng tay, để tiếp đó, nâng lên tư chút lấy ân và lấy uy. Rồi từ Tri huyện kinh lại cho ông làm Lang trung (trưởng pḥng), như là gợi ư con đường tiến thân thấp thoáng thênh thang đang ở phía trước. Cố lên ắt đến. Vậy là vùng Đông – Bắc đầy gai góc, được đặt vào tay ông. Bố Chánh, Tuần phủ, Thự Tổng đốc Hải Yên tới tấp đến và Nguyễn Công Trứ, thực sự xúc động thể hiện thực t́nh ḷng trung quân ái quốc của ḿnh. Bước chuẩn bị của nhà vua Nguyễn Thánh Tổ quả là bài bản. Nguyễn Công Trứ t́nh nguyện xă thân v́ đại nghĩa, lao vào những trận đánh dẹp giặc giă khắp vùng Đông Bắc, không hề đắn đo.

Với bản lĩnh của một nhà Nho thấm sâu giáo lư Khổng – Mạnh “bần tiện bất năng di”, “phú quư bất năng dâm”, “uy vũ bất năng khuất”, Nguyễn Công Trứ vui vẻ lên đường nhận nhậm sở trong tư thế hăm hở, vô tư, vô chấp như ngày nào. Để ư đồ của ḿnh thực sự công hiệu, nhà vua c̣n tỏ ra tin cậy dặn ḍ ông sống cho thanh liêm (thực ra là hăng hái dấn thân), hễ túng thiếu th́ báo về để nhà vua cấp thêm. 20 lạng bạc được cho dưới h́nh thức giấu giếm (thực ra nhà vua không cần phải xử sự như thế, nhưng đă làm ra vẻ như thế mới nặng t́nh riêng), càng làm cho Nguyễn Công Trứ thực sự xúc động. Vùng Đông-Bắc yên lành một thời dưới tay ông. Là thự Tổng đốc, Nguyễn Công Trứ lo toan tất cả. Tổ chức, binh bị, bố pḥng, dân cư, ruộng đồng, lụt băo, sông ng̣i, đê điều, giặc giă, cứu tế, đều từ một tay ông.

Vùng Đông Bắc tạm yên, Nguyễn Công Trứ cùng lănh binh Hải Dương là Đồng Bá Huyên, được giao sứ mệnh phối hợp với Lê Văn Đức, Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang), trên cương vị Tham tán quân vụ, dẹp cuộc nổi dậy đ̣i quyền thế tập, hùng cứ một phương của Tri châu Nông Văn Vân.

“Nghịch phạm ở Tuyên Quang, Nông Văn Vân, chẳng qua là hạng tiểu yêu, tự đặt ḿnh ra ngoài ṿng sinh thành (xin hiểu là phá hoại nền thống nhất Tổ quốc),… Ngươi nên ra đi, cùng Lê Văn Đức đem quân các đạo nhất tề tiến lên…”

(Đại Nam thực lục, tập III, trang 44-45)

Tác giả sách “Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX” say sưa phong cho Nông Văn Vân làm lănh tụ và đồng bọn là bộ tham mưu nghĩa quân, cũng nên xem lại. Bởi tưởng vậy mà không phải vậy. Bề ngoài thôi. Thật tiếc. Hăy đặt cuộc nổi loạn này trong bối cảnh sau cải cách hành chính để xây dựng, củng cố nền thống nhất quốc gia theo định chế quân chủ tập quyền của nhà vua Nguyễn Thánh Tổ và trong bối cảnh nhiều người nước ngoài ở phương Tây và cả phương Đông, đang có mưu toan riêng, mới nh́n ra bản chất đích thực của vấn đề. Cứ thử nghĩ xem. Trong điều kiện thông tin liên lạc thuở ấy mà người ta liên kết được một nhóm người Mường yêu Lê Lợi ở miền núi Thanh Hóa rồi ra Thái b́nh t́m Lê Hoàng – Phan Bá Vành. Người ta liên kết được Lê Văn Khôi ở Gia Định với bọn phản động cực đoan ở Thái Lan và Nông Văn Vân ở Bảo Lạc. Ai làm? Tự Phan Bá Vành ư? Tự Nông Văn Vân ư?

Xin trích vài tư liệu đă ghi trong Đại Nam thực lục Chính Biên.

“Khoảng đời Ngụy Tây (Sơn) người cha tên nghịch Vân là Nông Văn Liêm và bác ruột là Nông Văn Khoan, ẩn phục ở đấy bắn súng và dùng cả máy đá đánh sụt đá xuống, biền binh của Ngụy Tây đi đến đấy bị giết hại không kể xiết” (XIII-264).

“Nông Văn Vân… dựa vào Vân Trung, Ngọc Mạo làm sào huyệt, chiêu tập người Triều Châu, thu thập đồ đảng” (Đại Nam thực lục, tập XIV, trang 24).

Theo chỗ tôi hiểu, người Triều Châu không phải là nông dân Việt Nam và người Việt Nam không phải là nông dân Triều Châu. Sau này th́ chưa dám nói trước.

“Khi bọn Đức mới tiến đến Vân Trung, giặc Vân liền đem hết gia quyến trốn sang thung rừng thuộc địa giới nhà Thanh…” (XIV, 30).

“Những người nhà Thanh làm mỏ, mỗi nơi tụ tập để kiếm ăn đến trên bảy tám trăm người, đều là những kẻ du đăng trốn tránh. Chúng đào xẻ mạch đất, quấy nhiễu dân địa phương thường thường gây ra xích mích. Ngày nọ, giặc Vân đi đến đâu, chém giết bừa băi đến đấy, đều do bọn này hùa đảng, giúp nó làm bậy cả” (XIV-146).

“Nếu như có bắt sống được tên giặc nào, th́ phải hỏi rơ t́nh h́nh của giặc, hay là phái nhiều người đi bí mật do thám, xem ngoài tên Nông Văn Vân ra,… tất cả có bao nhiêu tên, tên nào ở đạo quân nào, cho chí những việc tiếp ứng, hiệu lệnh, người ta hưởng ứng ra sao, đạn dược quân nhu t́m lấy ở đâu…” (XIV-200).

Dặn ḍ như vậy, chứng tỏ nhà vua Nguyễn Thánh Tổ đă nghĩ đến thế lực giấu mặt bên ngoài. Ai không hiểu t́nh h́nh xă hội vùng biên giới phía bắc lúc đó th́ không thể chia sẻ nỗi lo lắng này để chỉ say sưa với khởi nghĩa nông dân.

“Bèn chia quân ra lùng, bắt sống được tên thống lănh tướng giặc là Triệu Văn Triệu (người nhà Thanh…” (XIV – 342).

“Cứ tin thám báo, th́ giặc Vân lẩn trốn ở Ngạn Lâm, Sơn Lũng… Khi đến giáp giới đất nhà Thanh, bắt được tên phạm trốn là Giả Văn Xu và Bào Bố Hợp, hỏi biết giặc Vân đă mang theo gia quyến trốn sang các thôn Lộng Mănh, Bác Thán nhà Thanh, được dân biên giới (bên đó) giấu giếm cho, bọn Quang Cự bèn làm chung giấy tư sang cho phân phủ Trấn An, yêu cầu lập tức bắt giao ngay cho, rồi đóng quân lại trên cơi để chờ và đem t́nh h́nh làm sớ tâu lên và nói: Một dải biên giới, người Thanh đều có phái binh ngăn chặn, quân ta tiến gần liền bị chúng cản lại nên không dám vượt biên giới đuổi theo” (XIX, 388).

“Trước đây, quan quân ta ḍ thám được tin giặc Vân trốn ở Bác Thán sai người đưa công văn đến quan sở tại nhờ bắt giải sang giúp. Bọn tri phủ, phân phủ và đốc phủ ở Trấn An nhà Thanh bèn ủy người đầu mục cửa ải mời ta sang diện hội. Tổng thống Tạ Quang Cự, Tổng đốc Lê Văn Đức, Tham tán Nguyễn Công Trứ và Hồ Hựu, đem quân đi sang bon họ lấy lễ chủ khách tiếp đăi trong khi đàm thoại, chỉ nói rằng đă tra xét, không thấy tung tích giặc Vân, duy săn được hơn 10 người đàn ông, đàn bà và trẻ con là người Để Định th́ nhân tiện phải đến giao trả. C̣n như việc gửi công văn, theo lệ phải do Nam Quan, nếu năng có văn thư đi lại thẳng với nhau, e can vào lệ cấm thông giao với ngoại quốc, cho nên mời ta đến nói rơ việc đó. Lũ Quang Cự cho rằng giặc Vân trốn sang đất nhà Thanh là đích xác, có nhiều người nói. Đă vặn bẻ hai ba lần, nhưng họ vẫn một mực từ chối, chống chế…” (XVI-43).

“Trước đây, săn bắt được người nhà vợ tên Vân, chúng xưng rằng người thôn Na Lạc nhà Thanh ngầm dẫn nghịch Vân đi ẩn ở vùng núi Lệnh thôn, bọn thần đă lập tức mật báo viên phủ Trấn An nghiêm nă. Sau đó tiếp được trả lời là luôn mấy ngày lùng xét, không thấy tung tích giặc Vân, cũng không thấy một người Để Định nào. Lại nói rằng Nam-Bắc có riêng bờ cơi, quân ta tiến vào nội địa nhà Thanh mà đóng lại và ở đêm là không hợp, nên mang quân ra phía ngoài biên giới. Bọn thần xét kỹ t́nh h́nh là v́ họ cho rằng bắt được giặc Vân ở nội địa của họ là việc kiêng kỵ, nên giả thác lời lẽ từ chối để tạm làm cho tắc trách đó thôi! Vả, đất Bắc Nậm nhà Thanh là quê mẹ tên Vân, Bác Thán là quê vợ lẻ nó. Ngày thường nó giao du nhiều, nên họ đă chuyển nhau đem Vân giấu đi” (XVI-65).

Khởi nghĩa nông dân chắc không giống vậy.

Nước ta là một quốc gia đa dân tộc. Nhiều vương triều trước thời Minh Mệnh, quản lư các vùng dân cư miền núi cơ bản đều dựa trên chính sách ki mi truyền thống. Bởi vậy, mỗi vùng tộc người thường có một hoặc nhiều tù trưởng bộ tộc cai quản theo luật tục thế tập cha truyền con nối. Mỗi tù trường như một vua con hùng bá một phương. Nhất là miền núi. Nhà nước trung ương khó với xuống châu, huyện. Mầm mống cát cứ từ đó mà nảy sinh. Tính cộng đồng dân tộc lắm lúc tưởng như ră đám.

“Các tỉnh ven biên giới ở Bắc Kỳ, núi khe hiểm trở, địa thế xa khơi, thổ ty sở tại, từ đời Lê về trước, noi theo cái thói thế tập, giữ dân, chiếm đất, nhận làm của riêng. Tiếng gọi là phiên thần, nhưng thực ra chưa nhuần thấm được thanh giáo hóa. Nay chốn biên thùy dần được yên lặng, th́ việc sửa sang xếp đặt cần nên làm trước. Tựu trung những chỗ đất rộng, dân nhiều như huyện Thạch Lâm ở Cao Bằng nên chia làm ba; châu Vị Xuyên ở Tuyên Quang, huyện Quảng Yên và huyện Thượng Long ở Cao Bằng châu Bạch Thông và huyện Tư Nông ở Thái Nguyên, huyện Văn Quang ở Lạng Sơn, đều nên chia làm hai.Ngoài ra vẫn để như cũ. Xin đều đặt chức lưu quan. Phủ: đặt 1 tri phủ, 1 quản phủ và 1 giáo thụ; huyện: đặt 1 tri huyện; châu: đặt 1 tri châu. Duy huyện Văn Lăng, số đinh không đầy 100, xin cho huyện Đại Từ kiêm lư, không nên riêng đặt quan lại. Huyện, châu nào hơi biết văn học, th́ đặt 1 huấn đạo. C̣n thổ ty, điều bổ đi nơi khác, để trừ bỏ mối tệ chuyên chiếm đất, chuyên chiếm của”(XVI-165).

Nhận ra đặc điểm đó, nhà vua Nguyễn Thánh Tổ đă t́m cách khắc phục. Hạn chế dần luật tục thế tập, để dân tự t́m ra người hiền tài đảm đương cương vị quản lư vùng lănh thổ trong cơ chế tổ chức chung.

Thiết tưởng điều đó cũng giống như một nghĩa cử phát bụi rậm, san thác ghềnh, bắc cầu, xây cống cho người sau có nề có nếp mà mở rộng ra, làm đẹp hơn lên con đường đi vào tương lai đất nước. Không dám chịu gian lao, không dám chịu tốn kém kể cả xương máu, đến lượt ta, dẫu muốn cũng không c̣n ǵ để mà làm. Thử xem vùng Tụ Long thuộc đất Cao Bằng xưa, nay nằm ở đâu, ta mới hiểu được nỗi gian lao giữ nước của mỗi thời.

Nông Văn Vân khăng khăng đ̣i giữ quyền thế tập không được th́ phản ứng rồi xúi giục, kích động những người thân thuộc, tù trưởng và một vài làng bản trong vùng. Vậy là tạo nên môi trường gây rối rất cần có của những kẻ giấu mặt đang len lỏi sách động đó đây. Mặt khác, bạn ta, anh ta, bao giờ cũng nhiều toan tính. Giá thử cuộc nổi loạn Nông Văn Vân không bị dập tắt th́ đến những năm 60 của thập kỉ XIX, sau khi phong trào Thái B́nh Thiên Quốc bị đàn áp, tàn quân Ngô Côn, Hoàng Sùng Anh… tràn qua biên giới cướp phá trên đất nước ta, để tướng Phùng Tử Tài của nhà Thanh vin cớ đem hàng vạn quân sang truy đuổi th́ lănh thổ cát cứ của lănh tụ nông dân Nông Văn Vân sẽ là đất đứng chân lâu dài của đội quân đang làm nghĩa vụ “quốc tế” này. Biết đến bao giờ mới đ̣i lại được. Những người đi trước giơ đầu chịu báng cho ta, sao ta lại không nhận ra, lại mạt sát người ta thậm tệ đến thế.

Nguyễn Công Trứ tham gia dẹp loạn yên dân tại Việt Bắc trong những năm 1833-1835 xuất phát từ nhận thức sứ mạng lịch sử đó. Đổ lên đầu ông tội đàn áp nông dân rồi cao giọng gán “một điểm đen trong toàn bộ cuộc đời”. Thiết nghĩ, nếu lúc đó ông làm nên điểm “đỏ”, th́ vùng lănh thổ Vân Trung, Bảo Lạc của Tổ quốc ta có lẽ cũng đă chung “chăn gối” với Tụ Long!

“Đặt quan phân chức, nên có chương tŕnh nhất định mà coi dân như một mới tỏ được ư nghĩa vương giả không để ai ra ngoài… Đến như việc xin cho tập quản th́ lại hóa ra tạm bợ quá. V́ bọn ấy tuy là dân biên thùy, nhưng cũng đều là con của triều đ́nh, há lại cứ noi theo thói tệ, không bàn đến kẻ hay người dở, cứ cho nhận làm của riêng anh em, con cháu thiện tiện nối nhau, lở có người không tốt, được thể làm càn th́ có thêm lụy cho dân ta không? Thậm chí Nông Văn Vân ở Bảo Lạc đă cho làm Thí sai Thổ tri châu, có chức hàm rồi, mà lại xin thế tập, chả quá ra phức tạp quá dư! Nay các châu huyện thuộc các trấn Tuyên Quang, Thái Nguyên, Quảng Yên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa trong thành hạt, theo công việc nhiều ít, dân số đông thưa, nên đặt Thổ tri châu, tri huyện, huyện thừa, lại mục th́ nghĩ định rơ ràng; không cứ Thổ ty, hào mục, cứ trong hạt ai là thanh liêm, tài năng cần cán, vốn được dân tin phục th́ chọn cử tâu lên, không được theo trước xưng là tập quản” (IX-248).

Nguyễn Công Trứ chỉ huy cánh quân chủ lực phối thuộc Lê Văn Đức tấn công hướng Tuyên Quang. Trong điều kiện rừng núi hiểm trở, đường chuyển quân xa, xấu, tổ chức hậu cần tiếp tế kém, giữ được quân, tiến đến đích là một việc cực kỳ khó, không những đă làm tṛn sứ mạng chặn và gom gọn, dồn đối phương vào thế đối phó bị động, mà c̣n nhận rơ, phân tích đúng h́nh thế núi sông, mức khó dễ của mỗi hướng, t́nh h́nh và tương quan địch – ta một cách chính xác, trên tinh thần trách nhiệm chung, giúp các mũi Tạ Quang Cự, Nguyễn Văn Phổ phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ hơn.

“Toán giặc Cao Bằng, chỉ từ Tiêm Lĩnh trở lên, dựa hiểm cố giữ, đă có Tổng thống Tạ Quang Cự và lũ lănh binh Nguyễn Tiến Lâm, Đoàn Văn Cải, đại đội quan quân để giúp vào việc đánh dẹp. Duy có địa thế Thái Nguyên, một mặt từ Định Châu rẽ ngang sang Đại Man thuộc Tuyên Quang, một mặt từ Bắc Cạn đi rẻo qua Bạch Thông, Cảm Hóa, thông lên Bảo Lạc thuộc Tuyên Quang; lại có một đường từ Linh Quang, Linh Mai giáp đồn Gia Bằng, thông đến Tiêm Lĩnh thuộc Cao Bằng. Đường rừng nhiều ngách, mà biền binh do Nguyễn Đ́nh Phổ đem đi chỉ có hơn 1.000 người, nếu nhằm Bắc Cạn mà tiến công th́ toán giặc ở Định Châu có thể ập lại phía sau; nếu chỉ chẹn giữa các đường ở Định Châu và Gia Bằng, th́ giặc Bắc Cạn thế tất lan tràn, mà quan quân ở Lang Sơn cũng chưa thể vượt Tiêm Lĩnh, lấy lại Cao Bằng được. Cân nhắc sự hoăn,cấp, th́ Thái Nguyên lại là khẩn cấp hơn. Vậy (tôi) xin lấy số binh dơng đang theo, đi gấp ngày đêm, đến hội với Nguyễn Đ́nh Phổ, chia đường tiến đến Bắc Cạn; một đạo do Gia Bằng đến Tiêm Lĩnh, đánh phá quân giặc ngăn đường; một đạo do Bạch Thông, Cảm Hóa thẳng đến Bằng Thành, Cổ Đạo, tiến vào bức bách giặc. Như vậy, thiết tưởng đạo quân Lạng Sơn (của Tạ Quang Cự) cũng dễ đủ sức làm việc, mà Cao Bằng có thể sớm lấy lại được”. Nhà vua Nguyễn Thánh Tổ khen và khuyến khích Nguyễn Công Trứ “đến bàn với Nguyễn Đ́nh Phổ”.

Với tài cầm quân, với trí thao lược, dù chỉ ở vị trí của một cánh quân phối thuộc với Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ cũng có tầm nh́n bao quát toàn cục chiến trường, để đề xuất và phối hợp tác chiến. Điều đáng ca ngợi nơi ông là trách nhiệm cộng đồng. Ông không hề nôn nóng, mánh khóe đẩy khó khăn cho người chọn cái dễ cho ḿnh. Nhất là không bao giờ lập mưu, lập mô giành thành tích chiến đấu trên người, của người. Ông là tất cả cho thắng lợi chung. Thự Tuần phủ Lạng – B́nh (Lạng Sơn, Cao Bằng) tâu: “Từ khi có đạo quân của Tham tán Nguyễn Công Trứ đến, th́ quân mới nổi tiếng”.

 

Nhờ tính nhạy bén, chịu khó quan sát địa h́nh, dân t́nh, thế giặc (có lẽ đă từng đọc binh pháp Tôn Tử “biết ḿnh, biết người, trăm đánh trăm thắng”), công tác chuẩn bị đối với Nguyễn Công Trứ tỉ mỉ, sâu sát, chính xác đă giúp ông và giúp tất cả bốn cánh quân triều đ́nh sát cánh nhau tiến đến mục tiêu trong điều kiện núi rừng hiểm trở. Tỉnh táo, chủ động ông tránh được tất cả các trận phục kích, tập kích bất ngờ theo lối thổ phỉ của đối phương. Cánh quân Nguyễn Công Trứ nhanh chóng trở thành lực lượng cơ động trên toàn chiến trường.

Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh đều in dấu chân ông trong cuộc dẹp loạn an dân để xây dựng và củng cố thể chế Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thuở đó, cũng có nghĩa là xây dựng và củng cố nền thống nhất quốc gia, tạo rất nhiều điều kiện cho các thế hệ sau.

Ngày 11 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 16 (Ất Mùi, 1835) quân triều đ́nh làm chủ chiến trường ca khúc khải hoàn. Đến tháng 6 cùng năm Nguyễn Công Trứ lại trở về lỵ sở (Hải Dương) cung chức (thự Tổng đốc Hải – Yên).

63 tháng ṛng ră (trừ 22 tháng tham gia dẹp loạn Nông Văn Vân ở Cao Bằng 8.1833-6.1835), vị thự Tổng đốc này “bơi” không biết mỏi giữa hỗn độn tả tơi vùng Đông-Bắc. Công việc thuần túy dân sinh của ông là đắp đê chống lụt, đào sông Cửu An xă lũ, trích các tổng Ngải Am, Đông Am, Thượng Am của huyện Vĩnh Lại và các tổng An Bổ, Đông Tạ, Bắc Tạ, Viên Gia, Vu Tŕ của huyện Tứ Kỳ lập nên huyện mới là Vĩnh Bảo (1838), Nguyễn Công Trứ tỏ ra là một tướng lĩnh có thiên tư. Chỉ riêng về mặt này, trừ thời gian trực tiếp cầm quân tiểu phỉ trên bộ hoặc cuỡi thuyền lướt sóng trên biển, ông c̣n nghĩ đến công cuộc bố pḥng lâu dài vùng Địa đầu này của Tổ quốc.

Các căn cứ Hải quân Đồ Sơn (1832), đồn Lang Tài (1835) thành Quảng Yên (1836), căn cứ Chàng Sơn (1838), căn cứ Vân Đồn – Vạn Ninh (1839),… nay đă lạc hậu và trở thành phế tích rồi, nhưng tấm ḷng ông th́ vẫn c̣n nguyên vẹn.

“Vả lại về phía đông đồn bảo gần ngả ba sông, trên bờ có một quả đồi khoảng khoát (rộng răi) có thể đặt xưởng đóng thuyền. Sau có một g̣ đất cao, có thể đóng thủy quân sư. Vậy xin liệu phát cho 3 chiếc vừa thuyền ô vừa thuyền lê đặt xưởng ở đấy, rồi chọn lấy một quản cơ hoặc phó quản, 6 suất đội, 200 lính tả quân, 100 thủy quân đến đóng đồn ở đó… Vua nghe theo”(188).

Là người đứng đầu hai tỉnh Hải Dương, Quảng Yên, coi như bao quát toàn bộ vùng Đông - Bắc nước ta thời bấy giờ, ngoài công việc dân sự như học hành thi cử, đắp đê, đào sông, lo lắng mùa màng, chẩn cấp thiếu đói…, Nguyễn Công Trứ toàn tâm toàn trí xây dựng căn cứ, đồn bốt, pháo đài, thành quách trong phạm vi lănh thổ thuộc quyền. Ông đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức và huấn luyện quân đội. Từ thực tế chiến trường trong những năm qua, ông nhận thấy binh sĩ triều đ́nh chưa ngang với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Tính h́nh thức dối trá của người chỉ huy, tính làng xă ô hợp của binh sĩ nếu không được khắc phục sẽ mang lại hậu quả khôn lường. Rất tiếc, lớp triều thần đồng liêu sợ ông “cao lớn hơn” đă quanh co t́m cách né tránh.

Tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 20, Nguyễn Công Trứ bị huyền chức Tổng đốc Hải – Yên về kinh chờ việc. Trong thời gian này ông lại trực tiếp quy hoạch xây dựng hệ thống pháo đài pḥng thủ Đà Nẵng.

Một con người có tầm kinh bang tế thế. Một tấm ḷng tận trung mẫu mực bị sử dụng dặt dè nghi kị đă làm thui chột đi sự khao khát cống hiến hết ḿnh trong ông.

Thời gian này bởi những tác động của t́nh h́nh bất an trong toàn khu vực Đông Nam Á, vùng biên giới phía Tây-Nam lắm việc.  Nguyễn Công Trứ lại xin ra trận. Sau không đầy một tháng ở Trấn Tây thành trên cương vị Tán lư cơ vụ, Nguyễn Công Trứ nhanh chóng nhận ra lẽ đúng sai khó dễ ở mặt trận này. Tầm nh́n chiến lược đầy nhân văn của ông không được nhà vua chia sẻ.

 

“Thần từ khi tới Nam Kỳ, hỏi kỹ về t́nh trạng bọn thổ phỉ và xem xét h́nh thế núi sông, so với sự thế của tên nghịch phạm bở Bảo Lạc là Nông Văn Vân, hơi có chậm khó hơn. Là v́, xướng lên khởi ngụy chỉ có  một Văn Vân, theo giặc chỉ có một châu Bảo Lạc; c̣n các thổ mục đều đem lính thổ dơng, theo quan quân ra sức. Tên đầu mục của giặc bị giết, th́ công đánh giặc xong. Nay bọn thổ phỉ không thống nhất một nơi, ở tản mát trong các chỗ: bằng phẳng, hoang vu, cây rậm, cỏ tốt, bát ngát 4 phía, phần nhiều tre xanh um tùm nước đọng bùn lầy không thể đi lại được, không như núi cao cây lớn, có thể phá đẵn đi tắt làm đường. Nay từ An Giang đến Trấn Tây trải qua Cổ Khê thuộc huyện hạt Phong Nhương; xứ Sa An sông nhánh Thuyết Nột thuộc phủ hạt Nghi Ḥa; từ An Giang đến Hà Tiên, trải qua Hà Dương, Hà Âm bên sông Vĩnh Tế, bọn giặc đều dựng đồn trại, quân ta vận tải lương thực, phát đệ công văn, chúng bèn đón chặn bắn trả. Mà 4 bên hạt lỵ Trấn Tây, bọn giặc ngày thường ḥ hét đánh vây, quan quân theo gót bắt th́ chạy, rồi lại tới. Chỗ nào cũng như đàn muỗi tụ, không có nơi hạ thủ” (XXII-380).

Tuy không dám nói tọac ra, nhưng tinh ư sẽ thấy việc đánh – giữ ở Trấn Tây Thành (Nông Pênh-tg) là phi nghĩa. Năm 1840 không như năm 1771 nữa rồi. Rút quân về và xây dựng t́nh hữu nghị là cao đẹp nhất, đắc sách nhất. Khác đi sẽ sa lầy, bất lợi mọi mặt. Vua Nguyễn Thánh Tổ chưa kịp xem xét th́ băng hà. Vua Nguyễn Hiến Tổ th́ nhất mực thực hiện những ǵ vua cha đang làm dở, chẳng những không nghe mà từ đó định kiến, chê trách, khinh ghét ông rồi hễ có cớ mọn vớ vẫn là vin vào để hành hạ ông. Tổn thất lớn ở Trấn Tây Thành sau đó chẳng có ǵ bù đắp.

Triều thần, tuy cũng lắm hiền tài muốn bênh vực Nguyễn Công Trứ, nhưng do thể chế xă hội đă biến họ thành một tập đoàn nói theo ăn thừa vô tích sự. Bởi trái ư vua, chưa nói chuyện mất mạng, công dồi mài kinh sử mấy chục năm qua đổ xuống sông xuống biển! Vả lại, đằng sau mỗi vị quan là một “đoàn tàu” ăn theo. “Một người làm quan cả họ được cậy. Một người làm bậy, cả họ mất nhờ”. Chẳng vị quan nào dám làm theo thiên chức, tri thức và ư chí của ḿnh.

May là Nguyễn Công Trứ biết coi mọi cái ngoài ḿnh là không phải ḿnh. Làm quan hay làm lính đối với ông không bằng làm người đúng nghĩa của nó. Bởi vậy, mặc dù bị phủi sạch công lao vun đắp vương triều Nguyễn, đày ải xuống sát đáy xă hội, ông vẫn thản nhiên vui vẻ, coi mọi sự như không.

“Dầu nắng dầu mưa có măi đâu”.

Ông biết một điều chắc chắn rằng dẫu ở địa vị tối cao tột cùng mà tiểu tâm th́ vẫn thấp hèn hơn mọi sự thấp hèn. Tự tại nhờ đó mà có. An nhiên nhờ đó mà nên. Ông sống được với đời, sống được giữa cuộc đời nhiễu nhương, bất công, lừa phỉnh, tàn bạo nhờ bản lĩnh đó. “Lúc làm đại tướng tôi không lấy làm vinh, th́ nay làm tên lính tôi cũng không lấy làm nhục”. Ông chỉ nhẹ nhàng gửi vào đời một lời khuyên nho nhỏ thôi.

“Ở ăn cũng tưởng về sau với,

Giời hăy c̣n cao, đất hăy dày”.

Ông b́nh thản trong mọi t́nh cảnh. Ông tin vào đạo lư làm người. Bởi đó là cái quyết định sự tồn tại vĩnh hằng ở mọi đường đồng mức giá trị nhân văn trong lẽ sống. Ông “làm cây thông đứng giữa trời” đến 80 năm để tồn tại măi măi với đời. Người hành hạ ông, rốt cuộc lại không được như thế. Một nữa quỹ thời gian của ông thôi. V́ người ta không nghĩ đến “Ở ăn cũng tưởng về sau với”

Thiết nghĩ, về mặt quân sự, Nguyễn Công Trứ cũng không hề “bôi đen toàn bộ cuộc đời” ông, như ai đó từng cao giọng.

Nh́n cho thấu, nghĩ cho phải, mọi việc ông làm hôm qua đều v́ hôm nay và cho hôm nay. Muôn năm Nguyễn Công Trứ. Mấy ai được như ông.

Con c̣ lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất

Thương cái c̣ lặn lội bờ sông..

Tiếng nỉ tiếng non gánh gạo đưa chồng.

Ngoài ngh́n dặm một trời một nước.

Trông bóng nhạn bâng khuâng từng bước.

Nghe tiếng quyên khắc khoải năm canh.

Nghĩa tép tôm ai nỡ dứt t́nh

Ơn thủy thổ phải đền cho vẹn xóng.

Tràng tên đạn xin chàng bảo trọng,

Thiếp lui về nuôi cái cùng con.

Cao Bằng cách trở nước non,

Ḿnh trong trắng có quỷ thần a hộ.

Sức bay nhảy một phen năng nổ,

Đá Yên Nhiên c̣n đó chẳng ṃn.

Đồng hưu rạng chép thẻ son,

Chàng nên danh giá, thiếp c̣n trẻ trung.

Yêu nhau khăng khít dải đồng.

(Gánh gạo đưa chồng)

 

V. HOẠN LỘ THĂNG TRẦM

 

Mười hai năm đầu đời, dẫu là quan huyện, nhưng lại đúng vào thời đoạn cuộc nội chiến vương triều đă phát triển ra cả nước, Nguyễn Công Trứ chưa hẳn đă no đủ theo lẽ b́nh thường. Giữ ḷng trung quân ái quốc, Tri phủ Tiên Hưng – Nguyễn Công Tấn, được vua Lê Mẫn Đế (1787 -1788), gia tặng hầu tước (Đức Ngạn hầu), hăng hái tham gia phong trào cần vương, chống Nguyễn Huệ không thành, từ chối hợp tác với nhà Tây Sơn, đưa vợ con về quê lánh nạn. Về quê, gia cơ đă bị quân Bắc B́nh vương đốt phá sạch, Nguyễn Công Trứ học làm người, học làm quan, trưởng thành trong sự phá sản sa sút của gia đ́nh, trăm đường túng thiếu. Nhưng đă “Trót sinh ra th́ phải có cái chi chi. Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu”. Không “có cái chi chi” đồng nghĩa với bỏ phí cả đời người. Từ quan niệm sống minh bạch như thế ông chấp nhận dấn thân. Đó là những năm tháng tôi luyện bản lĩnh của một nhà Nho có chí.

Khoa thi Hương đầu tiên dưới thời Gia Long được tổ chức vào năm Đinh Măo – 1807, cũng là khoa thi đầu đời. Nguyễn Công Trứ, 30 tuổi háo hức lao vào con đường công danh bằng niềm tin và hy vọng nhập thế đầy trách nhiệm với chính ḿnh.

“Đi không chẳng (há) lẽ lại(trở) về không”.

 Khoa thi này ông trở về không thật. Và, ông đă thua keo thứ nhất. Điều canh cánh trong ông như một thứ lửa nung chí bền bỉ “bại không nản” ấy là mục tiêu đang hiển hiện phía trước:

“Đă mang tiếng ở trong trời đất.

Phải có danh ǵ với núi sông”.

Khoa thi Hương thứ hai vào năm Quư Dậu – 1813, Nguyễn Công Trứ men được vào nhị trường. Qua nhị trường có nghĩa là đạt mức tú tài. Phan Huy Chú, một sĩ tử tài hoa, hai lần lều chơng cũng hai lần “nhị trường” trở thành tú tài kép, như là một sự an ủi, phần nào làm vợi nỗi thất vọng trong ḷng “thầy” Uy Viễn. Niềm vui nho nhỏ đó nhen nhóm giữ cho ngọn lửa niềm tin không lịm tắt trong ông.

Khoa thi Hương thứ ba vào năm Kỷ Măo – 1819, Nguyễn Công Trứ, 42 tuổi, “đứng đầu bảng hổ” – giải nguyên, chuẩn bị đưa gia đ́nh vào kinh đô Huế. Những bước thăng trầm trên quan trường đang hẹn ông phía trước.

Minh Mệnh nguyên niên (1820), Nguyễn Công Trứ được nhà vua Nguyễn Thánh Tổ cho vào làm Hành tẩu (chân tập sự) ở Quốc Sử quán. Đó là những ngày háo hức nhất của cuộc đời ông. Chưa đầy một năm vị Giải nguyên này được chuyển sang ngạch chính thức Biên tu (viết sử), tham gia sơ khảo thi Hương tại trường Trực Lệ (Thừa Thiên), và phúc khảo tại trường Sơn Nam (Nam Định), Ân khoa Tân tỵ - 1821, để rồi sau đó hai năm đă được nhận chức Tri huyện Đường Hào (Yên Mỹ, Khoái Châu thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay). 5 năm sau, Minh Mệnh thứ 5 (1824), Nguyễn Công Trứ được thăng lên bậc Lang trung bộ Lại, giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám (trường Đại học quốc gia). Tiếp đó, ông được chuyển sang làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên (Đặc khu thủ đô), rồi ra làm Tham hiệp trấn Thanh Hóa (1825). Sau 3 tháng về quê lo tang lễ thân mẫu (1826), ông được nâng lên cấp Thị Lang (vụ trưởng) bộ H́nh, quyền biện H́nh tào Bắc Thành, để cùng với Nguyễn Hữu Thận, Trương Văn Minh, Nguyễn Đức Nhuận tăng cường phối hợp với Phạm Văn Lư, Phan Đ́nh Bảo, Nguyễn Văn Phong dẹp cuộc bạo loạn của Phan Bá Vành ở Trà Lũ (1827). Năm 1828 được nâng cấp lên thự hữu Tham tri (q. thứ trưởng) bộ H́nh, giữ chức Doanh Điền Sứ, trực tiếp tổ chức khai hoang, lấn biển lập nên hai huyện Tiền Hải (Thái B́nh), Kim Sơn (Ninh B́nh) và hai Tổng Hoành Thu, Ninh Nhất (Nam Định).

9 năm hăng hái, nhiệt thành, đánh giặc giỏi, khai hoang di dân lập ấp có tâm và có tài, từ một cử nhân, Nguyễn Công Trứ vươn lên trên hoạn lộ một cách quá suôn sẻ, mà nhiều vị Tiến sĩ chưa vươn tới.

Nhân trong dịp ông tổ chức khai hoang ở huyện Giao Thủy, trấn Sơn Nam Hạ có hai người tên là Phạm Nguyên Trung, người xă Liêu Đông và Ngô Huy Phúc, người xă An Đạo đưa cho người giúp việc của ông một số bạc (70+90 lạng) nhờ xin quan Doanh điền sứ dành riêng cho họ một số ruộng làm tư điền. Nguyễn Công Trứ cho bắt giam hai kẻ hối lộ cùng tang vật rồi dâng sớ báo lên vua. Việc làm quang minh chính đại đó, lẽ ra được mọi người suy nghĩ noi theo, th́ ngược lại, các quan ở Bắc Thành ṿng vo đ́nh nghị buộc tội “giáng 3 cấp, đổi đi nơi khác”. Th́ ra, thời xưa là thế. Người có tài mà lại trung thực thường hay bị ganh ghét. Bọn giá áo túi cơm không làm nên tṛ trống ǵ lại canh cánh sợ mất ăn, mới nghĩ ra trăm ngh́n thứ xấu mà khoác cho người ta. Tiền Hải, Kim Sơn như hai tấm bảng vàng làm ḷng người lương thiện xôn xao mà bụng bọn xu thời lại đố kị. Th́ ra thời - thế  nên thời nào cũng thế.

“Sớ giao xuống quan Bắc thành tra bàn, cho rằng Công Trứ vâng mệnh đi dinh điền, có trách nhiệm vỗ về khuyên bảo. Nếu biết tự ḿnh trong sạch mà giữ công bằng lấy tín dạy người th́ ai c̣n dám tư túi. Bon Phạm Nguyên Trung kia đem của đi van, ấy là dân hèn dùng kẻ trốn tránh; Lê Đ́nh Thọ nhận lời người nhờ cậy chẳng qua là một người thuộc ṭng, sao nên quá trách. Về phần Công Trứ th́ nên tự xét và bảo cự tuyệt đi mà răn là phải. Nay lại bắt số bạc tang mà bày tỏ ở chương sớ, làm rác tai vua, thế là tự trị không nghiêm mà lại khép người vào pháp luật, để cầu mua tiếng ngay thẳng cho ḿnh đều là không phải việc nên làm của người quân tử. C̣n bọn Phạm Nguyên trung th́ phạt xuy trượng rồi tha” (IX-235).

Một hành vi đi cửa sau theo kiểu gửi bà để mua ông rành rành như thế mà các vị đại thần thay mặt vua cai quản xứ Bắc ṿng vo đổi trắng thay đen quả là đáng sợ. May sự vụ này nhà vua Nguyễn Thánh Tổ chứng tỏ ḿnh c̣n là một đấng minh quân.

“Xét án th́ phải t́nh lư thích đáng mới có thể phục được người. Nguyễn Công Trứ trù biện việc dinh điền, quả thật giữ được trong sạch công bằng th́ cũng chỉ ở chỗ hết ḷng ḿnh thôi. C̣n như Phạm Nguyên Trung và Lê Đ́nh Thọ manh tâm trong tối, cầu cạnh, xin xỏ, th́ làm sao biết trước được mà lại bảo không nên quá trách, sao thấy lư mờ tối thế? Vả trong án xét không có sự trạng rơ ràng sách nhiễu lấy tiền, thế là Công Trứ tự trị không phải không nghiêm. Duy nhận hối lộ có bạc tang ở đó mà người nhận, chúc thác lại là người nhà, nếu chỉ cự tuyệt và răn, như lời thành thần nói, th́ người ta sách nhiễu mà bảo quan tự tha, như thế có được không? Công Trứ không dám ẩn giấu, rơ ràng tâu lên, mà lại cho là làm nhàm tai là thế nào? Huống chi bọn Nguyên Trung tự phạm pháp luật chứ ai đặt vào? Công Trứ đi theo đường thẳng, tại sao lại cho là mua tiếng ngay thẳng. Đó chẳng qua là ư kiến sai lầm cho nên bất giác đă bàn quá đáng. Vậy truyền chỉ nghiêm trách thành thần mà Công Trứ th́ miễn nghị” (IX-235).

Tính ṿng vo của kẻ ganh ăn tức uống được che bởi ngôn từ xu nịnh “làm rác tai vua”. May là vị tân vương này c̣n tỉnh táo, không mắc bẫy.

Lần thứ nhất Nguyễn Công Trứ thoát nạn.

Giành được ngôi vua từ tay ḍng đích thuộc phe thân Ve Rô Bá Đa Lộc, nhà vua Nguyễn Thánh Tổ muốn chứng tỏ ḿnh là một đấng anh minh trước thiên hạ, khi có bộ phận thần dân (phần đông là con chiên ngoan đạo) c̣n ngả theo công cuộc Phúc âm hóa. 10 năm mInh Mệnh đầu, triều Nguyễn thực sự cần nhanh chóng thực hiện chính sách chiêu hiền đăi sĩ. Sự ưu ái của Nguyễn Thánh Tổ đối với Nguyễn Công Trứ lúc này c̣n nằm trong xu thế đó.

Tháng 4 nhuận năm Minh Mệnh thứ 11 (Canh Dần, 1830), Hữu Tham tri Nguyễn Công Trứ cùng Tả Tham tri Trương Minh Giảng được giao trông coi công việc ở bộ H́nh.

Tháng Giêng năm Minh Mệnh thứ 12 (Tân Măo, 1831) nhân dịp về kinh, Thự Hiệp trấn Nam Định Nguyễn Nhược Sơn có cho Phí Quư Trại cùng đi. Phí Quư Trại vốn là người trợ lư đắc lực của Nguyễn Công Trứ trong cuộc khai hoang lập huyện Tiền Hải năm 1828. Bởi nhận biết năng lực, tư cách của Phí Quư Trại nên Nguyễn Công Trứ đồng t́nh với Nguyễn Nhược Sơn tâu xin nhà vua cho Phí Quư Trại làm chân Huyện thừa huyện Tiền Hải. Xét cho cùng, việc hai ông làm là v́ lợi ích chung, không hề có tư túi ǵ. Một huyện vừa mới thành lập, dân giang hồ hảo hán, du thủ du thực, phiêu tán tứ chiếng mới quy tụ về. Một người vừa có của, vừa có công lại hiểu rơ dân t́nh, quen thuộc phong thổ, được dân mới mộ nể phục như Phí Quư Trại làm huyện thừa là thích hợp. Vả lại, ngay từ những ngày đầu gom dân khai hoang lập ấp, nhà vua đă cho phép ai mộ được 50 người th́ cho làm lư trưởng. Ai mộ được 30 người cho làm ấp trưởng…Phí Quư Trại có công, có của lại tận tâm th́ đề xuất vào chân huyện thừa cũng là hợp lẽ. Hoàng Quưnh tài đức tầm thường nhưng xu nịnh th́ có bài bản, muốn hạ uy tín của Nguyễn Công Trứ để leo cao hơn mới thêu dệt rằng:

“Trại chỉ là một kẻ hào phú ở Nam Định, ruộng đất công tư bị nó bao chiếm, dân nghèo vô sản nghiệp bị nó sai khiến, nếu việc cất nhắc này mà đắt, không những bọn sĩ phu khoa mục cống cử làm phủ huyện ở ngoài xấu hổ phải đứng cùng hàng mà một huyện Tiền Hải, tất lại sẽ là một nơi sào huyệt những kẻ trốn tránh. Huống chi quan tước là do các tiên đế cùng Thế tổ Cao hoàng đế để lại cho Hoàng thượng, để đăi kẻ hiền tài trong thiên hạ, cho nhà nước dùng, cho nên dù một tư hay nửa cấp Hoàng thượng cũng chưa từng lấy t́nh thân ái mà cho riêng ai. Hai gă kia nghĩ thế nào, mà dám lấy quan tước của triều đ́nh làm cái quà của ḿnh để thù đáp riêng. Xin trị tội để ngăn chặn con đường cầu cạnh, mà răn những kẻ bề tôi dối vua làm riêng”.

“Vua xuống chỉ khiến bọn Trứ tâu trả lời và giao đ́nh thần đối chất nghị xử. Khi lời nghị tâu lên xin đều xử cách chức, vua đặc ơn đổi giáng bổ Trứ làm Tri huyện Kinh huyện, giáng bổ Nhược Sơn Tri huyện Tiền Hải, Phạt Quư Trại một trăm trượng và truy thu lại văn bằng của thành, bắt phải về dân”.

 

172 năm đă qua, đọc lại những ḍng này trong sách Đại Nam thực lục ta như thấm thêm nỗi đau nhân thế. Thời nào dường như cũng vậy. Bọn gian thần th́ bao giờ cũng leo cao. Một vùng đầm lầy hoang vu người ta sát cánh nhau làm nên làng, nên xóm, Hoàng Quưnh không mảy may hay biết. Lời vua khi giao việc Doanh Điền Sứ cho Nguyễn Công Trứ c̣n nguyên đó: “Nay việc dinh điền đă giao cho Khanh, phàm việc có thể làm lợi trừ hại cho dân, cho tùy tiện mà làm, nên hết ḷng xếp đặt sớm báo thành công, để yên ủi ḷng Trẫm mong đợi”.

Khi đất bồi bờ biển c̣n là một băi bùn bỏ hoang cho bọn lưu manh trộm cướp làm sào huyệt, ai mộ được 50 người cho làm Lư trưởng. Ai mộ được 30 người cho làm ấp trưởng… Bây giờ thành làng, thành ruộng rồi th́ Hoàng Quưnh la lối lên. Vả lại, hai ông cũng chỉ mới đề cử thôi. Nào ai đă quyết. Cho hay không là thuộc quyền vua. Nhưng loại người vô liên sĩ kiểu Hoàng Quưnh chẳng nên chấp ǵ. Điều đáng tiếc là nhà vua thiếu minh mẩn quên lời khuyên bảo trước. Đă “cho tùy tiện mà làm”, khi cử ông giữ chức Doanh Điền Sứ, sao lúc này vừa hoàn công như ư, lại để đ́nh thần cách tuột người có công thực sự, rồi giả vờ ra chiếu cố vớt vát lên giữ chức Tri huyện kinh. Nghĩa là tri huyện không cai quản ai cả. Ngồi chơi xơi nước. Họ Nguyễn nguyên là người Thanh Hóa. Nguyễn Thánh Tổ đang cần một người tài giỏi, trung thành để ném vào nơi khó khăn nhất, mà theo ông, ngoài Nguyễn Công Trứ không ai có thể làm được. Quy nên tội. Châm chước giảm tội. Tạo cơ hội cho người có tội lập công là thủ đoạn cai trị của nhà vua thuộc ḍng họ Nguyễn Gia Miêu Ngoại Trang. Nguyễn Công Trứ bị hạ xuống rồi lại được nâng lên một chút để ban ơn mà giao việc tày đ́nh cho ông. Nếu Nguyễn Công Trứ có tội đúng như Hoàng Quưnh thêu dệt th́ c̣n lâu mới được phục chức. Đằng này, vài tháng sau, nhà vua ưu ái nâng Nguyễn Công Trứ lên làm Viên ngoại lang ở Nội vụ phủ, rồi nhanh chóng lại cho lên Lang trung. Nguyễn Công Trứ chưa kịp mừng th́ lại nhận được chiếu chỉ cho làm Bố chánh Hải Dương (tháng 5 năm Nhâm Th́n, 1832), 4 tháng sau đă được giữ chức thự Tổng đốc Hải – Yên (hải Dương – Quảng Yên), “cái túi” của mất mùa, đói khổ, trộm cướp, giặc giă ngoài biển và trên đất liền. Ơn vua cũng kèm theo sứ mạng. Nguyễn Công Trứ mang ơn và đă sống hết ḿnh v́ ơn đó. Động thái gửi cho thự Tổng đốc Hải Yên 20 gói thuốc lào có giấu trong ruột 20 nén bạc, vào dịp này cũng nằm trong sự “ưu ái” như thế của nhà vua. Nhà Nho trong người Nguyễn Công Trứ tâm niệm giáo điều “quân sử thần tử, thần bất tử bất trung” và 8 tháng sau (tháng 5 năm Quư tỵ, 1833) th́ dâng sớ xin đi Cao Bằng dẹp loạn. Bởi khâu tiếp tế, triều thần tổ chức quá kém, binh sĩ thiếu lương thực thường xuyên và mùa mưa miền rừng núi Việt Bắc lại quá khắc nghiệt nên Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ tiến quân chậm hơn so với mong muốn của nhà vua. Vậy là các quan bộ H́nh không biết ǵ về chuyện chiến trường, đón ư vua không vui, tâu xin khép hai ông vào tội xử tử.

Nhà vua Nguyễn Thánh Tổ không nghe họ (hẳn là ông đă biết chuyện Trần Ngỗi nghe gian thần giết oan Đặng Tất hơn 400 năm về trước).

“Châu Bảo Lạc vốn có tiếng là nơi hiểm trở xa xôi, thủy thổ đă xấu, mưa lũ lại nhiều, lam chướng lại nặng, c̣n có thể tha thứ được. Nay chính là lúc tiến đánh, cũng nên tạm rộng khoan thứ, cho họ được đới tội lập công. Nếu cứ theo phép thi hành th́ họ đă không được dự việc quân, muốn thi thố hết mưu mô và vơ dũng cũng không có chỗ! Ḷng ta không nỡ. Vậy chuẩn cho trước hăy tước mũ áo, đoạt hết lương bổng. Lê Văn Đức lại bị giáng 4 cấp, Nguyễn Công Trứ giáng 3 cấp khiến cho thu công về sau để chuộc tội trước”.

Thật ra, xét cho đúng tội là do bộ phạn tiếp tế chậm và không đủ. Nhà vua chỉ đạo lại quan liêu. Binh sĩ thiếu ăn, mười Nguyễn Công Trứ cũng không xoay xở được. Lẽ ra trị bọn đánh giặc mồm ở bên cạnh vua, th́ lại hành hạ người đang xông pha phía trước.

Đây là lần thứ hai Nguyễn Công Trứ bị án oan, phải lấy chiến công mà gỡ. Cũng may, nếu như hai vị tướng tài Nguyễn Công Trứ và Lê Văn Đức bị xử tử, theo ư muốn của các quan bộ H́nh, th́ ai cầm quân mà xông pha tên đạn. Và, Nông Văn Vân rất có thể sẽ làm vua ở Huế.

Thật ra nhà vua cũng thừa hiểu điều đó. Thăng giáng trong tay vua. Nguyễn Công Trứ chỉ là Tham tán quân vụ thuộc quyền Tổng đốc Lê Văn Đức, phụ trách mặt trận phía Tuyên Quang. Nhưng là người nhạy bén, sớm nhận ra thực tế chiến trường, đề xuất mở thêm hướng chợ Ră, Bắc cạn. Như vậy là ông đă nhận làm cái dấu nối giữa Lê Văn Đức (tuyên Quang) với Nguyễn Đ́nh Phổ, Tổng đốc Ninh-Thái (Bắc Ninh - Thái Nguyên), đang tiến quân ở phía Thái Nguyên. Tuyến Nguyễn Công Trứ tiến quân chưa có đường thiên lư mà chỉ có lối ṃn của những người đi săn. Việc tiến quân chậm, ngoài những lư do về tiếp tế kém (lỗi ấy phải được coi là của tuyến sau, trong đó có nhà vua), c̣n phải tính đến thời tiết và địa thế. Ngày 11 tháng 3 năm Ất Mùi (1835), cánh quân Tuyên Quang nhận được tin Nông Văn Vân đang trốn trong khu rừng Vân Trung. Đề đốc Phạm Văn Điển dẫn quân lên trước vây đốt cả khu rừng. Nông Văn Vân chết cháy (theo Thực lục). Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ được xóa án.

“Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ trước bị can án hành quân chậm trễ, phải tước bỏ mũ áo, nay cho lập tức trả lại” (XVI-152).

Trận đánh vào Vân Trung giết Nông Văn Vân giống như một cuộc đá bóng. Nguyễn Công Trứ không trực tiếp làm bàn nhưng lại chính là người thiết kế, tổ chức, tạo nên thời cơ và điều kiện cho đồng đội làm bàn. Cái “thự” (Q) trước chức danh Tổng đốc Hải Yên của ông vẫn chưa được cắt.

“Thự Tổng đốc Nguyễn Công Trứ, trước đây cùng Lê Văn Đức, hai lần đi đánh giặc lần đầu chỉ tiến được đến Vân Trung, chưa diệt trừ được tên ác tặc đầu sỏ; lần sau lại không đến thẳng được. Tuy sự thể xui nên như thế, nhưng vẫn là có lỗi; Trứ biết tự thẹn, hăng hái, cố gắng, mưu tính lập công… kể cũng đáng khen” (XVI-296)

 

Nh́n tổng thể các mũi tiến quân vào Vân Trung tháng 3 năm Ất Mùi (1835): Lê Văn Đức (Tuyên Quang), Nguyễn Công Trứ (Bắc Cạn), Nguyễn Đ́nh Phổ (Thái Nguyên), Tạ Quang Cự (Lạng Sơn) th́ cánh của Nguyễn Công Trứ ở vị trí tung thâm và gánh cho cả Nguyễn Đ́nh Phổ đồng thời chi viện Tạ Quang Cự. Chỗ dựa của Nông Văn Vân cũng ở khu núi rừng và vùng cư dân nơi đây. Nhà vua và triều đ́nh chỉ nh́n được ai đốt cháy khu rừng có Nông Văn Vân mà không nhận ra hướng tiến quân đă đuổi Nông Văn Vân chạy trốn vào khu rừng để Phạm Văn Điển nổi lửa. V́ thế, phần thưởng cho các tướng lĩnh thắng trận cũng từ đó mà ban phát.

“Đề đốc Phạm Văn Điển, một chiếc nhẫn ngọc mặt 19 hạt kim cương, một tấm bài đeo bằng ngọc trắng có chữ “phúc, thọ” và dây tua rủ xuống xâu ngọc trai và san hô; Tổng thống Tạ Quang Cự một chiếc nhẫn ngọc trai mặt 11 hạt kim cương, một tấm bài đeo bằng ngọc trắng cơ chữ “phúc, thọ” và dây tua rủ xuống xâu ngọc trai và san hô; Tổng thống Lê Văn Đức, một chiếc nhẫn ngọc 10 hạt kim cương, một tấm bài đeo bằng ngọc trắng có chữ “phúc, thọ” và dây tua rủ xuống xâu ngọc trai và san hô; Tham tán Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Thụy, Nguyễn Tiến Lâm và Hồ Hựu, mỗi người một chiếc nhẫn ngọc mặt kim cương to bằng hạt đậu và một tấm bài đeo bằng ngọc trắng có chữ “song hỷ” và dây tua rủ xuống có xâu san hô” (XVI-152).

Giải nguyên khoa kết thúc ngành Hán học (Mậu Ngọ, 1918) – Lê Thước nhận xét về cuộc đời chen chúc những thăng trầm của Nguyễn Công Trứ như sau:

“Muốn hiểu việc ấy, nên nhớ rằng nước ta là một nước quân chủ chuyên chế, quyền bính tự vua giữ lấy cả, họa phúc tự vua làm ra cả, nhà vua muốn củng cố cái quyền bính của ḿnh, thời thường phải dùng sự ân oai thể thao túng và lung lạc người ta. Cụ Nguyễn Công Trứ làm quan bị giáng nhiều lần, song cũng nhiều lần được cái vinh hạnh đặc cách, tức như túng tiêu mà được vua ban cho hai mươi nén bạc, gói vào trong thuốc trà; đi đường bị cảm mạo mà vua hạ chiếu an ủy, lại phái một thị vệ đem một viên Ngự y tới nơi điều trị… Tuy nhiên, ấy là một cái thủ đoạn điên đảo hào kiệt, chứ kỳ thực th́ nhà vua thấy cụ có tài cao đức trọng, ai cũng kính phục, không muốn để cái thanh thế cụ lớn lên quá, sợ khó giá ngự về sau; v́ thế cho nên đă lấy ân mà cất lên, lại phải dùng oai mà ức xuống. Nhưng ân thường chỉ là ân mọn, mà oai th́ toàn là oai lớn. Xét ra cụ Nguyễn Công Trứ bị cách giáng tuy nhiều lần, song nặng nhất là lúc làm H́nh bộ Tham tri mà giáng bổ Kinh tri huyện, lại như lúc làm An Giang tuần phủ mà cách phát làm thú binh. Theo ư chúng tôi th́ cả hai lần đều là oan ức cả”.

(Lê Thước, sđd, trang 15)

Sau khi dẹp xong cuộc nổi loạn do Tri Châu Nông Văn Vân cầm đầu, tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 16, Ất Mùi, 1835, Nguyễn Công Trứ được trở về lỵ sở Thự Tổng đốc Hải – Yên. Ông lại lo toan mọi việc trên vùng Đông – Bắc sóng gió chưa mấy khi yên này. Trên bộ, trên biển đâu cũng nhiều việc. Khi cầm quân đuổi đánh hải tặc, lúc chỉ huy đào sông đắp đê, hoặc tổ chức khai hoang lập làng, Nguyễn Công Trứ cống hiến toàn tâm theo bổn phận. Tháng 7 cùng năm được thăng bổ hàm Thượng thư bộ Binh vẫn kiêm lư Tổng đốc Hải – Yên. Định ngữ “thự” đeo đẳng bao nhiêu năm đến lúc đó mới được cắt bỏ. Nhưng không lâu sau ngày hân hoan ấy bởi những người coi tù để tướng cướp Đoàn Danh Lại trốn thoát, Nguyễn Công Trứ lại bị giáng 4 cấp nhưng được “chuẩn cho lưu dụng, định hạn điều tra lùng bắt”.

Cuối tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 18 (Đinh Dậu, 1837) công cuộc đào sông và đắp đê Cửu An hoàn tất, giặc giả cũng ít quấy phá hơn, Nguyễn Công Trứ được gọi về triều tâu báo t́nh h́nh và hiến kế giải quyết tàn quân Nông Văn Vân ở Cao Bằng. Nhà vua lại cho ông được sử dụng ngựa trạm trở về nhiệm sở tổ chức phát thóc cho dân vay.

Tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 20 (Kỷ Hợi, 1839), Nguyễn Công Trứ được vua khen về công trạng đánh giặc lập làng mới là Hướng Hóa rồi được triệu về kinh. Bỗng dưng hơn một tháng sau th́ bị giáng chức xuống Hữu tham tri bộ Binh bởi bộ Lại tố cáo khi đi bắt giặc làm việc không khéo nên “xin theo lệ nịch chức, xử cách chức”. Vua lại “thể t́nh ưu ái” giáng xuống Hữu Tham tri bộ Binh kiêm tả phó Đô ngự sử viện Đô sát… Với cương vị này, sang tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 21 (Canh Tư, 1840), Nguyễn Công Trứ tham gia xây dựng và củng cố hệ thống pháo đài pḥng thủ Đà Nẵng. Sau đó ông được giao việc coi thi tại trường Hà Nội, khi trở về th́ được nâng lên Thự Đô ngự sử vẫn kiêm Hữu tham tri bộ Binh rồi cho sung Tán lư cơ vụ ở Trấn Tây.

Điều mà Lê Thước tiên sinh đă viết: “thời thường phải dùng sự ân oai để thao túng và lung lạc người ta… ấy là một cái thủ đoạn điên đảo hào kiệt” th́ ra là thế. Hạ xuống để ra oai. Nâng lên để ban ân. Người trung quân răm rắp đái công đền đáp. Trước khi giao Hải Yên cho Nguyễn Công Trứ, nhà vua cũng đă t́m cớ hạ xuống, rồi nâng lên, đến nay lại hạ xuống rồi nâng lên trước khi giao cho ông ghé vai gánh vác công việc tại Trấn Tây thành, nơi mà quân triều đ́nh đang bị tổn thất nặng, có nguy cơ sa lầy. Nhà vua Nguyễn Thánh Tổ băng hà, chưa kịp suy nghĩ sau khi đọc sớ dán kín của Nguyễn Công Trứ. Nhà vua Nguyễn Hiến Tổ nối ngôi nhất nhất làm theo ư vua cha. Tai họa đến với Nguyễn Công Trứ từ sự thiếu hiểu biết của vị tân vương này.

Tháng Giêng năm Thiệu Trị nguyên niên (Tân Sửu, 1841), “Kinh lược Tham tán đại thần ở Trấn Tây là Nguyễn Tiến Lâm, Tán lư cơ vụ là Nguyễn Công Trứ đến nơi quân thứ, đầu tiên dâng sớ nói: Thành Trấn Tây là nơi chứa để những thuyền bè, súng đạn, khí giới, lương thực, quan binh ở các đạo và các phủ, đồn đều do thành này cung cấp cho cả, thực là một nơi căn bản trọng yếu. Thế mà trong thành th́ chật hẹp, không đủ chỗ chứa quân lính, mà đối ngạn về phía đông nam, một dải La kết khoảng độ vài dặm, thuyền công và thuyền tư đỗ ở đấy liền như vảy cá, nhỡ có chuyện ǵ bất ngờ sinh ra, mối lo không nhỏ, nay cả hạt Chân Lạp về bè với nước Xiêm, vừa rồi nghe nói Chất Tri gọi họp các phiên mục đến cả Hải tây, yêu cầu ta lui quân, mới ra đầu thú. Thế cũng đủ biết đại khái được sự giảo quyệt của chúng. Nhỡ ra chúng đi đường tắt để đến thành Trấn Tây, hoặc là nhân chỗ hiểm để chẹn đường vận lương của ḿnh, cũng chưa biết chừng. Vả lại, lấy được đất phải cần lấy được cả người, nay man dân ấy coi ta là cừu địch, tuyệt nhiên không chịu về với ta, th́ ta chỉ giữ được cái thành không mà thôi. Quan quân muốn đi đến nơi nào, đều phải do đường thủy, thế mà t́nh h́nh của địch hư thực thế nào, đường đi xa gần bao nhiêu, núi rừng chằm lầy đi lại khó dễ ra sao, ḿnh không biết tư ǵ cả! Khi bỏ thuyền lên bộ, tất phải chia quân đóng giữ. Vận lương qua nơi hiểm trở chỉ đủ dùng cho ba bốn ngày thôi; dù có lấy được rồi cũng phải bỏ. Thế là sở đắc không đủ bù cho sở tồn…

Khi sớ này đến kinh, gặp việc quốc tang, chưa được trả lời”

                                                                  (XXIII, trang 45).

Việc quân ngoài biên ải là đại sự. Hàng ngh́n tướng sĩ đang đứng trước t́nh thế tiến thoái lưỡng nan. Nhà vua Nguyễn Hiến Tổ lấy cớ quốc tang không thèm để ư là vô trách nhiệm. Nguyễn Công Trứ, Trương Minh Giảng… đă nhận ra cuộc chiến tranh xâm lược này là phi nghĩa và yêu cầu có quyết định đúng đắn th́ nhà vua nhất mực khăng khăng đ̣i tiến quân giành thắng lợi một cách mù quáng. Thực tế chiến trường, tính chất chiến tranh phía ta sai và hoàn toàn bất lợi, nhà vua không biết ǵ cả. Chỉ ngồi trong ngai vàng rồi dùng oai quyền mà hô hoán. Không nhận thấy sai lầm mà đổ căm giận lên đầu tướng lĩnh ngoài mặt trận. Trong bối cảnh đó, những kẻ ngu dốt liều lĩnh, bất chấp đạo lư nhắm mắt cúi đầu làm càn như Nguyễn Công Nhàn lại được nhà vua tin cậy. Tổn thất về sinh mạng và của cải từ đó mà nhân lên.

“Bọn Tiến lâm và Công Trứ lại cùng với kinh lược đại thần Phạm Văn Điền, và tán lư cơ vụ Đinh Văn Huy tiếp tục dâng sớ nói về t́nh h́nh biên giới ở Trấn tây đại lược:… V́ rằng địa thế rộng xa đường rừng nhiều lối, nếu có quân chia đường tiến đánh, cũng cần phải nghe tăm hơi nhau, hăng hái tiến lên. Bọn giặc nếu thấy thế không chống nổi, th́ chạy tan đi các ngả, không thể bắt được. Quan quân đem lương đi sâu vào, không thể ở lâu; một khi vừa mới rút về, th́ bọn giặc lại tụ tập như cũ. Huống chi, khí hậu ở Trấn tây khác với nơi trung thổ: đương mùa đông mà khí nóng dữ dội, suốt ngày gió lốc, cát bay bụi mù. Nếu không sớm xong việc binh nhung, th́ quân lính bị cảm nhiễm ngày càng nhiều, thành ra không tiện… Nay đă không thể lấy lời suông bảo cho họ hiểu được, tất phải dùng đến binh uy; nhưng quân lính th́ ít, vây bắt không khắp, binh lính nhiều th́ lương thực phiền phí, chưa chắc đă được việc ǵ”

                                                                                  (XXIII-47).

Những lời tâm huyết của một tập thể tướng lĩnh có trách nhiệm như thế, tưởng đă quá rơ ràng. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đang bị cả một dân tộc đồng tâm chống lại. Thế thất bại đă bày ra trước mắt. Nhà vua một mực không nghe, khăng khăng bắt đánh. V́ thế Kinh lược đại thần Phạm Văn Điển thua trận. Lỗi ấy thực sự do nhà vua gây ra nhưng lại đổ lên đầu Nguyễn Công Trứ.

 

“Nguyễn Công Trứ từng trải trận mạc đă nhiều, sao lại không biết ngăn cản, th́ c̣n trông mong ǵ nữa! Tội ấy sẽ đáng nên trị, nhưng v́ tội ấy xảy ra trước khi đại xá, th́ tha cho. Chuẩn cho được đeo tội lập công”

                                                                          (XXIII-71).

Không nh́n ra lẽ đúng sai, dễ khó, thắng bại, mù quáng trước tham vọng bành trướng đă đẩy hàng ngh́n tướng sĩ vào cuộc chiến tranh xâm lược vô vọng. Tội đó do chính nhà vua gây nên lại lấy cớ “đại xá” tha cho để bắt người ta làm theo ư riêng của ḿnh. Không đánh là khi quân, dễ bị đ́nh nghị theo ư vua, khép vào tội chết. Đánh là thiệt đơn thiệt kép, khi hàng ngh́n sinh mạng trong tay ḿnh. Đến tháng 3 năm Tân Sửu, Lê Văn Đức bị ốm nặng, Nguyễn Công Trứ phải thế chân giữ chức Tham tán đại thần vẫn chủ trương ḥa giải rút quân, t́m cách tránh đổ máu cho cả hai bên, khi c̣n chưa đến nỗi sa lầy, không được nhà vua chấp nhận.

“Vua bèn cho thự Chưởng vệ Nguyễn Công Nhàn làm chưởng vệ quyền sung Tham tán ở Trấn tây; Tôn Thất Mậu làm phó Lănh binh, Nguyễn Công Trứ lại về chức tán lư” (XXIII-224).

Vậy là lời tâu thành thực và đầy trách nhiệm của Nguyễn Công Trứ, một vị tướng có tài thao lược, biết ḿnh biết người, nhà vua đă bỏ ngoài tai, cất chức Tham tán của ông, giao quyền chỉ huy mặt trận cho Nguyễn Công Nhàn, một kẻ vơ biền dốt nát và cơ hội. Họa nước từ đó mà nên.

Để đẹp ḷng vua, Nguyễn Công Nhàn xua quân ra trận, liên tiếp bị tổn thất nặng nề. Những kẻ ít học, hữu dũng vô mưu, thường là như thế.

Dẫu biết nhà vua đă nghi ngờ, không tin, nhưng với trách nhiệm của một con người có lương tâm, Nguyễn Công Trứ vẫn dũng cảm dâng sớ dán kín tiếp tục mật tâu.

 

“Nước Cao Miên được triều đ́nh trông nom đùm bọc đă lâu, lại đặt ra thành Trấn tây để pḥng giữ. Đă 8 năm nay, tốn phí tài lực không biết đâu mà kể, nhưng thổ binh th́ không thể sai phái được, thổ dân th́ không thể dạy dỗ được. Từ khi có việc binh biến đến nay, quan quân chết trận có đến hàng ngh́n, cho đến súng đạn khí giới bị hao tổn, tiền lương chi phát ra, thuyền bè phải vận tải, công và tư đều hao tổn cả! Ba Xuyên và Lạc Hóa cũng lần lượt không được yên tĩnh. Các tỉnh thuê bắt đ̣i gọi, nông và thương đều vất vả cả. Sự thể hiện nay khác với năm ngoái, nhân dân do sự ngờ sợ mà sinh biến loạn; năm nay đă có tên Dun làm tù trưởng, chí ở khôi phục lại nước, nên nhân dân một ḷng liều chết… Chỗ nào cũng đóng đồn họp quân, nương chỗ hiểm để chống lại. Việc sai người đi ḍ la hoặc dẫn đường, hai việc ấy đều không thể làm được cả… Thành Trấn tây bốn mặt đều phải đối địch với giặc, ứng tiếp không chu, nếu một phen không dùng đến đại binh th́ không bao giờ xong việc được. Nói cho đúng, quân nhiều phải tốn nhiều, nhưng cũng thêm cho sự tốn phí mà thôi. V́ rằng, dù lấy được đất ở nơi ấy, cũng không thể cày cấy được, dù lấy được dân ở xứ ấy, cũng không sai khiến được. Song, đă sửa sang xếp đặt, công lao khi trước không nên bỏ cả. Nên nhân theo t́nh thế mà làm cho được việc”

                                                              (XXIII-257).

Tướng lĩnh ở ngoài biên cương nắm rơ t́nh thế, hiểu đúng sai, nhưng nhà vua Nguyễn Hiến Tổ lại ngạo mạn, hiếu chiến, mù quáng. Cuối cùng không thể khác, đành phải rút ngắn quân về. Trương Minh Giảng uất quá mà chết, lại bị “truy đoạt lại chức Trấn tây tướng quân… Bộ H́nh tâu lên, khép Cao Hữu Dực, Phạm Văn Điển, và Nguyễn Công Trứ vào tội trảm giam hậu… Nguyễn Công Trứ th́ cách chức thự Tả Đô ngự sử kiêm Tham tri bộ Binh, giáng làm Lang trung bộ Binh, nhưng cho cách lưu, quyền lĩnh tuần phủ An Giang” (353).

 

Môt ông vua không có tầm kinh bang tế thế, lại bị một đám nịnh thần, thường trực đón ư vua mà đ́nh nghị, tai họa đổ xuống đầu trung thần, lương tướng đă gây nên hậu quả khôn lường. Các dũng tướng Lê Văn Đức, trương Minh Giảng, Phạm Văn Điển, Đoàn Văn Sách… lần lượt qua đời thực sự là tổn thất to lớn đối với đất nước thuở đó. Nguyễn Công Trứ không được vua tin đành phải nhận chức tuần phủ An giang dưới quyền điều hành của Nguyễn Công Nhàn, vốn là một tùy tướng thuộc quyền. Dẫu biết Nguyễn Công Nhàn chỉ là một tay vô lại, nhờ tính hung hăn, liều mạng mà lên. Nhưng nhà vua lại thích các loại tướng lĩnh chỉ đâu đánh đó. Tai họa đối với Nguyễn Công Trứ thế tất phải đến. Cuộc chiến đấu ở Trấn tây thành là một cuộc đọ sức tay ba. Ta ở về phía bất lợi. Người có trí có tâm như Nguyễn Công Trứ, Trương Minh Giảng, Lê Văn Đức, Phạm Văn Điển… đều nhận ra và đều t́m cách tâu với nhà vua lẽ phải trái. Nguyễn Công Nhàn th́ chỉ biết liều mạng đánh. Đúng sai không biết mà bàn. Thắng là may, thua th́ làm lại. Mất bao nhiêu quân, mất bao nhiêu chiến cụ… không cần bận tâm. Vua tâm đắc với hạng người này nên đă nâng ông ta lên hàng Tổng đốc. Ngồi được vào ghế Tổng đốc rồi, Nguyễn Công Nhàn nơm nớp lo sợ Nguyễn Công Trứ, một trí thức, một nhân cách, đă từng là cấp trên của ông ta.

Vụ thứ nhất Nguyễn Công Nhàn vu cáo Nguyễn Công Trứ nhận tiền hối lộ của dân thôn Tân Hựu tỉnh An Giang không thành, bởi quá lộ liễu, Nguyễn Hiến Tổ giả vờ phạt xuống bốn cấp nhưng vẫn cho lưu chức. Không nhận ra tội lỗi bất lương “gắp lửa bỏ tay người” của ḿnh, Nguyễn Công Nhàn lại nhân việc Đoàn Quang Mật bắt được đội trưởng đồn Chu Giang đi sang Chân Lạp do thám, Nguyễn Công Nhàn lại tâu về triều vu cáo Nguyễn Công Trứ tổ chức buôn lạu. Lần này, Nguyễn Hiến Tổ thực sự muốn làm cho ra chuyện để trị Nguyễn Công Trứ, mới “sai Tham tri bộ Lễ, Trần Ngọc Giao sung Khâm sứ đại thần đem cả Lại khoa chưởng ấn cấp sự trung Đặng Kham đi đến ngay để tra xét. Khi Ngọc Giao đến, biết hết được t́nh trạng Công Nhàn vu cáo để buộc tội. Khi án dâng lên, Nghĩa Phương và Công Nhàn v́ tội vu cáo bị xử phạt trượng, phát lưu; Công Trứ làm việc phần nhiều xuất lược, Quang Mật nghe Công Nhàn và Nghĩa Phương sai khiến, đều bị phạt trượng cách chức” (XXV-81).

Người cố t́nh vu cáo bị phạt trượng. Người bị vu cáo đă không được minh oan, che chở, lại bị phạt nặng hơn. Phán quyết của vị “thiên tử” này quả thật đă mất b́nh thường, nếu không muốn nói là bất nhất, bất minh. Phải chăng ông ta hậm hực v́ Nguyễn Công Trứ là nguyên nhân của việc lui quân! Và, phải chăng, tài thơ Nguyễn Công Trứ đă lên tới tầm cao mà một nhà vua say thơ lại chưa vươn tới. Lấy địa vị mà trị tài năng, là chuyện cơm bữa giữa ban ngày.

Vụ tiến cử Phí Quư Trại vào chức Huyện thừa huyện Tiền Hải năm Minh Mệnh thứ 12 (Tân Măo, 1831) do Hoàng Quưnh thêu dệt nên, Nguyễn Công Trứ đă bị giáng xuống làm Tri huyện kinh (tri huyện không dân), tưởng đă quá đáng. Lần này, không liên quan, không vương lụy với ai, chỉ v́ bị người thân vua đặt điều vu cáo mà nên tội. Giá như, vua không hay biết ǵ mà hành hạ oan ông, dù đáng trách nhưng c̣n có thể biện bạch ṿng vo được. Đằng này, biết rơ mười mươi Nguyễn Công Nhàn vu cáo mà vẫn cố t́nh buộc tội Nguyễn Công Trứ th́ quả thật nhà vua Nguyễn Hiến Tổ quả là người không c̣n mệnh “thiên tử”. Triều Nguyễn chết trong ḷng thần dân, trước tiên, bởi những điều như thế.

75 năm trước, khi nhắc lại chuyện này, Giải nguyên Lê Thước đă phải hạ bút “Tục thường có câu rằng “dục gia chi tội, hà hoạn vô từ”, bị vu cáo mà mắc tội, không đủ lấy làm lạ, chứ đă biết vu cáo mà c̣n bắt tội th́ mới thực là kỳ”.

Nguyễn Công Trứ, mặc nhiên, dửng dưng làm anh lính biên pḥng Quảng Ngăi, lũng lẳng cây dao tu, cái nón dấu, thản nhiên như không. Tự tại đến thế mới tài.

“Ở ăn cũng tưởng về sau với,

Giời hăy c̣n cao, đất hăy dày”

Vài câu gửi gắm vào đời như thế tưởng đă đủ làm nên cái ung dung, cái chân dung tự tin và cao sáng của con người có tầm Hồng Lĩnh.

Hai lần bị giáng nặng, hai lần ông đứng lên trên đôi chân của ḿnh. Trời cao, đất dày chưa kịp soi tỏ những tâm địa hèn mọn, nhỏ nhen, nham hiểm nhưng nhăn tiền ở ăn như thế nào, đều đă bày ra đó.

Niềm tin và ḷng cao thượng đă đưa ông đến với mọi kiếp người và mọi kiếp người đến với ông bằng t́nh thương và lẽ sống.

“Xót thương thay! Một bậc trọng thần danh tướng, tiếng tăm lừng lẫy khắp ngoài quận trong triều, mà nhất đán v́ cái miệng đứa tiểu nhân, đặt đễ nên điều, mà phải đem ḿnh làm kẻ thú binh, thật quả là:

Trên đường danh lợi vinh liền nhục

Giữa cuộc trần ai khóc lộn cười

Nghe nói lúc cụ đi đến tỉnh Quảng Ngăi, vào chào quan tỉnh để đợi lệnh phát đi đồn nào, cụ cứ nghiễm nhiên ḿnh mặc cái áo cộc mầu chàm, đầu đội nón dấu, vai mang một ruột tượng gạo, bên hông lại đèo một cái dao tu, xỏng xảnh trong một cái vỏ bằng gỗ. Quan tỉnh thấy vậy, ra dáng bất yên, muốn cho phép cụ cỡi đồ lính ra, nhưng cụ nói: cứ xin để vậy, lúc làm đại tướng tôi không lấy làm vinh, th́ nay làm tên lính tôi không lấy làm nhục. Người ta ở địa vị nào, có nghĩa vụ đối với nghĩa vụ ấy, làm lính mà không mang đồ ấy th́ sao gọi là lính được”.

(Lê Thước, sđd).

Ngày trước liêm sĩ c̣n cao. Đến tuổi về hưu là cụ dâng sớ xin hưu ngay, không một dây cù nhầy, quanh co nấn ná.

Mới theo dấu chân Nguyễn Công Trứ, một đoạn ngắn trên con đường dài dằng dặc của ông, tôi đă cảm thấy bâng khuâng. Đời quả có định mệnh. Hảo nhân đa hữu nạn, h́nh như không từ ai?

Cúc cung, tận tụy với triều đại, với non sông như ông, sao mà trầm luân đến vậy. Tài thơ hơn người. Tầm kinh bang tế thế hơn người. Vậy là người có thế trên ông mà thua ông về thơ, thua ông về tài hẳn là đă “ban” cho ông nhiều nỗi đắng cay. Tuổi Tuất trầm luân lắm. Ấy là người với người. Luật công bằng của tạo hóa nằm ngay trong cuộc sống hàng ngày. Nguyễn Công Trứ thành tâm, thản nhiên mà bước, dai dẳng đến 81 năm. Người hành hạ ông nhiều nhất, lại chỉ được một phân nửa. Giá vay trả của cuộc đời vốn nằm bên trên, bên ngoài mọi đẳng cấp.

Giáo sư Tiến sĩ Lê Văn Tâm ở trường Đại học Gottingen (Liên Bang Đức) có cho tôi một chút kiến thức nho nho về vạn vật học trong vài lần hàn thuyên khi cả hai nhàn rỗi, lang thang ven làng Về nguồn. Ông thích nói đến sự cộng sinh trong một khu rừng nguyên sinh với định đề “thế giới đồng hiện hữu”. Tôi chưa có tầm hiểu xa đến vậy. Chỉ mong rằng riêng trong đại gia đ́nh người hăy cư xử theo cái t́nh “đồng hiện hữu” trước. Có cái t́nh đó rồi ta mới biết nh́n nhau trong sự sẻ chia những điều được, mất. May ra, ta bớt bôi đen nhau. Cuộc đời tất cũng êm đềm hơn, và đẹp đẽ hơn. Nh́n cho kỹ, tôi thấy Nguyễn Công Trứ chưa một lần tự bôi đen ḿnh. Hoàng Quưnh, Nguyễn Công Nhàn cố t́nh bôi đen ông, đều mất ngay sau khi họ chết. Nguyễn Công Trứ đến nay vẫn sáng và mai sau c̣n sáng hơn. Bởi, lịch sử vốn có tính công bằng.

 

“Cái ba đào trong bể hoạn, âu hẳn chưa có ai gian truân bằng cụ. Bắt đầu lănh chức Hành tẩu (tập sự, tg) Sử quán, chưa chín năm đă thăng H́nh bộ tham tri thự Tổng đốc. Bước công danh như thế cũng đủ là chóng, cơ tri ngộ như thế cũng đă là may. Ai ngờ rồi đó trầy trật măi. Thăng lên giáng xuống, chẳng biết là mấy nhiêu lần. Chung cục lại chỉ c̣n cái hàm Thừa Thiên Phủ doăn (tam phẩm) mà về hưu trí. Xét ra cụ Nguyễn Công Trứ làm quan sở dĩ hay bị xuất giáng như thế là bởi cái cớ tại cụ cũng có. Người có tài thường hay cậy tài và hay mang oán. Nhưng phần nhiều là bởi tại nhà vua có ḷng hẹp ḥi, không muốn trọng dụng cụ, để cụ được đắc thời hành đạo, đem hết tài kinh luân ra mà tế thế trạch dân”.

 (Sđd, trang 14).

Người cuối cùng của khoa thi ngành Hán học viết vậy. Các thế hệ sau ông, không mấy ai c̣n cái điềm đạm, lễ phép đó nữa. Đao to búa lớn mà băm thôi. Ghế cao, uy thế cao, lư luận cao là chân lư. Vậy là ông mang án “bôi đen toàn bộ cuộc đời”.

Ngót 40 năm đèn sách dùi mài kinh sử. Chẳng mấy ai khen  và chẳng mấy ai chê. Có chí th́ nên. Ông phấn đấu và ông thành đạt. Đậu ngay giải nguyên, lại được vời vào kinh giao việc. Vậy là xôn xao những lời đàm tiếu. Ở đời, làm th́ khó. Gièm pha chê bai th́ dễ. Nào là nhà vua Nguyễn Thế Tổ dặn quan trường nâng đỡ ông. Nào là Lê Văn Duyệt lệnh cho quan giám khảo chiếu cố. Ngày trước thi cử cũng vậy sao. Nếu thế th́ ông phải đỗ từ khoa thi đầu (1807). Đợi ǵ đến năm 1819. Những bước thăng trầm đời ông phần nhiều vua dựa theo những lời đàm tiếu thiếu vô tư của không ít đại thần. Đó là việc hoặc v́ ngôi thứ hoặc v́ thể chế, quan trí mà một thời đất nước Đàng Ngoài – Đàng Trong, Tống Nho, Minh Nho mỗi vùng theo một mục tiêu riêng mà t́m chỗ dựa, thành ra xa cách nhau có khi trở thành đối nghịch. Giá như họ hợp được, ngồi lại với nhau được để chung vai gánh vác xây dựng cơ đồ non sông, đáng quư biết nhường nào. Nguyễn Công Trứ là hiện thân của sự cao thượng, của kẻ sĩ Bắc Hà, có mặt tại triều đ́nh Phú Xuân, do các tướng lĩnh phía nam lắm huân công qua chinh chiến mới dựng lên. Bất đồng, bất ḥa là không tránh khỏi. Điều đáng tiếc và đáng trách là người đứng trên mọi người lại không có tầm nh́n xa, không có tầm ḷng quảng đại. Nhất là không tính đến sự tồn vong lâu dài của quốc gia. V́ vậy, những bước thăng trầm của con người tài hoa, mẫn cán, vô tư (nên thiếu đề pḥng) Nguyễn Công Trứ cũng là một điều tất yếu.

Xin chia sẻ với ông hơn là chê bai lên án ông.

Gớm chết nhân t́nh thế thái!

Lạt nồng coi chiếc túi đầy vơi.

Trông tốt mầu lựa ư theo lời.

Giọng thù phụng ngọt ngào đủ mực.

Khi trở quẻ sa mày nặng mặt!

Thói đảo điên hủng hỉnh không dời.

Nghe ra thời cũng buồn cười,

Nghĩ lại từ đây phải chạy.

Buộc chỉ cổ tay chừa trước ấy,

Chống rèm con mắt ngắm sau này.

Việc trăm năm ngày tháng hăy dài,

Đường kim cổ hẳn nhiều lúc gặp.

Thôi cũng chớ can chi mà gấp,

Bỗng bồn chồn hấp tấp khéo xinh.

Gớm cho thế thái nhân t́nh.

(Nhân t́nh thế thái)

 

 

 

 

VI. NHÀ THƠ

 

Nghiệp thơ Nguyễn Công Trứ một phần gắn liền với những bước thăng trầm của cuộc đời ông . Dường như những cái ông đă bị mất trong cuộc đời th́ t́m được trong thơ. Nói cách khác, những bước thăng trầm mà nguyễn Công Trứ đă trải qua đều hằn lên trong thơ ông, nên tôi để phần “Nhà thơ” xuống phía sau.

“Cổ nhân thường ví người ta với cái cây, văn chương tức là cái hoa, sự nghiệp tức là cái quả. Cây có mạnh th́ hoa mới đẹp, quả mới tốt. Nhưng những cây hoa đẹp chưa hẳn đă có quả tốt; mà những cây quả tốt, chưa hẳn đă có hoa đẹp. Cũng như người văn chương hay, chưa chắc sự nghiệp đă tốt. Mà những người làm nên sự nghiệp tốt, chưa chắc văn chương đă hay. Như cụ Nguyễn Công Trứ th́ mới thật là hoàn toàn. Sự nghiệp đă lừng lẫy mà văn chương lại tuyệt vời, nhất là văn Nôm của cụ th́ lại càng đặc sắc lắm. Cụ chỉ dùng những tiếng người ta thường đọc, thường nghe, nói ra tức  là thành văn, không nắn nót chạm gọt như các nhà văn sĩ khác. Lời văn của cụ vừa nhẹ nhàng, vừa chất phác, trông vào không thấy ǵ là cao ḱ mà đọc lên nghe rất thú vị. Trông vào không có ǵ là thâm thúy, mà đọc lên ư thật dồi dào. Lời không chải chuốt mà hay. Văn không trau dồi mà lịch. Thiệt là cơ trữ nhất gia”.

(Lê Thước,  Sđd, trang 46)

Những ḍng như thế của Lê Thước tiên sinh, qua cậu tôi, Trúc Chi-Nguyễn Cận, đă thấm dần sang tôi. Và, có lẽ qua những tao vơng Cậu tôi đưa, thơ Nguyễn Công Trứ cũng từ từ nhập vào tâm hồn bé bỏng của tôi. Nghiễm nhiên, tôi thuộc nhiều thơ Nguyễn Công Trứ mà ít nhớ thơ về sau. Cũng tự cậu tôi cả.

 

“Đă mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh ǵ với núi sông”.

 

“Trót sinh ra th́ phải có chi chi,

Chẳng lẻ tiêu lưng ba vạn sáu”.

 

“Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,

Không công danh thời nát với cỏ cây”.

 

“Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo”.

 

“Giang sơn bất thiểu anh hùng khách

Gánh càn khôn đeo nặng kẻ rừng Nho.

Thiên phú ngô, địa tái ngô.

Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ư

Dă thị giang sơn chung tú khí

Quả nhiên đài các xuất danh công.

Hội rồng mây cho thỏa chí tang bồng

Cờ báo tiệp giữa trời nam bay bướm nhẹ.

Tài bộ thế mà công danh lại thế,

Nợ trần hoàn quyết trả lúc nào xong.

Dồi dào thiên tứ vạn chung.

Khanh hầu xa mă tướng công lâu dài.

Trần ai, ai dễ biết ai!”

 

Những câu như thế, những bài như thế, rót dần vào tuổi thơ tôi. Lớn lên, tôi ra lính. Cậu tôi làm nghề bốc thuốc Bắc ở làng. Cũng lắm gian nguy.  Nhưng h́nh như Nguyễn Công Trứ đă giúp ông đứng vững.

 

“Cuối tết mới hay rằng sớm muộn,

Giữa vời sao đă biết nông sâu?

Hăy xem trời đất thời liền rơ,

Dầu nắng dầu mưa có măi đâu”.

 

“C̣n trời c̣n đất c̣n non nước,

Có lẽ ta đâu măi thế này”

 

“Cơ tạo có đi thời có lại

Vạch vôi lấy đó măi ru mà”.

 

“Ở ăn cũng tưởng về sau với,

Giời hăy c̣n cao, đất hăy dày”.

 

Trước Nguyễn Công Trứ năm thế kỉ, Nguyễn Trăi đă từng viết:

 

“Phượng những tiếc cao diều hăy lượn

Hoa thường hay héo cỏ thường tươi”.

 

Sự đời, sự người thời nào cũng thế. Các bậc vĩ nhân thường có tầm tư duy trùng hợp. Vấn đề là “ở ăn cũng tưởng về sau với”. Không “tưởng về sau”, khi “họa vô đơn chí” đến, mấy ai đưa tay ra!

Vậy ra, thơ Nguyễn Công Trứ không chỉ vạch hướng cho người ta phấn đấu đi lên, mà c̣n bày cho người ta cách  đứng trụ, trong t́nh thế hiểm nghèo. Hăy tin vào những ǵ thuộc về đạo lí. Sống biết lấy đạo lí làm trọng, th́ mai sau chẳng đến nỗi nào. Chẳng chải chuốt, màu mè ǵ nhưng tài thơ chính là ở đó. “Mang mang huyền giám chân phi viễn” mà đến cuối thế kỉ XIX, Lă Xuân Oai c̣n nhắc lại, th́ cũng như “Giời hăy c̣n cao, đất hăy dày”. Vậy ra, tính nhân văn, tính hướng thiện thể hiện tính người, t́nh người đầy ấp trong thơ ông. Tôi muốn học làm thơ nhưng đă dốt lại không có năng khiếu thơ nên đứng bên ngoài “công viên thơ” mà chiêm nghiệm. Những ḱ hoa dị thảo mỗi ngày một sum sê, những trái ngọt mỗi ngày một trĩu cành chen lá, nhưng cổ thụ Hy Văn vẫn xanh cao vững chăi, trong công viên thơ đó, chưa dễ bị che khuất như hàng trăm cây cỏ chung quanh.

Vào thuở đạo Khổng gắn chặt với sân Tŕnh, người ta dùng thứ chữ Nho để cai trị, để thi cử, thăng quan tiến chức và nhất là để làm thơ. Mẫu mực thơ Đường được coi là đỉnh cao của văn chương, th́ Nguyễn Công Trứ lại lấy chữ nôm ra mà “tải cái đạo của ḿnh”. Ông quả là nhà thơ có đạo. Đạo làm thơ và đạo làm người. Thơ ông “tốt gỗ” nên không cần sơn. Ngôn ngữ thơ ông như ngôn ngữ giao tiếp đối thoại thời thường vậy. Ấy mà lại nên thơ. Mới tài. Nhà Nho, nhà quan cao sang; nhà dân, nhà nông nghèo hèn đều cảm nhận được thơ của ông. H́nh như trong cuộc đời này vẫn bàng bạc đâu đó, ai đó ngôn ngữ kiều th́ cũng bàng bạc đâu đó, ai đó phong cách Nguyễn Công Trứ. Vào thập kỉ 60 của thế kỉ XX, thịnh hành một dạo những cuộc gặp mặt của những người bị giam trong các nhà tù đế quốc trước năm 1945. Ngoài những chuyện đấu tranh, học hành, người ta hay đưa thơ tự biên tự diễn trong tù ra đọc. Có những bài nhại theo “Hàn Nho Phong Vị Phú”. Có những bài mượn ư, mượn cả lời “Luận kẻ sĩ”. Có những bài cải biên đôi chỗ, đôi chỗ để nguyên. Có lẽ ngoài Nguyễn Du với truyện Kiều th́ Nguyễn Công Trứ là người “vào tù” nhiều nhất. Những người bị giam cầm không phải tất cả là nhà thơ. Nhưng ở hoàn cảnh đó làm thơ lại trở thành phong trào. Chưa có tứ th́ đắp da đổi thịt vào thơ Nguyễn Công Trứ. Sá ǵ. Luận chiến sĩ, cũng bắt đầu “Tước hữu ngữ sĩ cư kỳ liệt. Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên…” (Luận kẻ sĩ). Rồi “Cùng đạt có riêng chi mệnh số…”, Hồ thỉ đă quen tay vũ trụ, Cầm thư chi lạ mặt quan hà. Túi giang sơn bốn biển cũng là nhà, nên vương thổ cả trong trời đất Việt”… Hoặc mở đầu, hoặc kết thúc. Cũng có khi bí quá th́ đệm vào giữa, vài câu, làm nên cười, làm nên vui và cả làm nên niềm tin. Ấy là trong tù. Ngoài đời th́ “Hường hường tuyết tuyết” h́nh như có phảng phất trong “Oan nghiệt”. “Tương tư” như có trong “Hôm nay gió nhẹ mây cao. Ta buồn không hiểu v́ sao ta buồn”. Lâng lâng, bàng bạc Nguyễn Công Trứ đó đây, chứng tỏ, ông gần với cuộc sống đời thường của chúng ta nhiều lắm. Ông vẫn sống với chúng ta, chia sẻ với chúng ta. Tôi tin, ông c̣n an ủi nhiều người. Học ở ông lúc trẻ, để “có danh ǵ với núi sông”. Học ở ông lúc về già là đức tính kiên nhẫn, trong sáng, vô tư, hồn nhiên và bao dung, tự tại. Đôi khi, có những cái ông đă đánh mất trong quan trường, th́ t́m lại trong thơ. Khi đă là con người, việc cho ǵ và nhận ǵ giữa đời mới là điều nên lưu ư. Quan niệm nhân sinh của ông cũng như mọi nhà Nho đương thời là con người đứng trong trời đất. Khác nhau ở chỗ phân giới hạn: Lập chí, cống hiến, hưởng thụ. Không cống hiến lại thích phô trương cái “giổm” ra mà hưởng thụ mới đáng sợ. Nguyễn Công Trứ tuyên bố đầy đủ trong bài “Ṿng trời đất” rồi vậy.

 

Ṿng trời đất dọc ngang ngang dọc

Nợ tang bồng vay trả, trả vay

Chí làm trai nam bắc đông tây,

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.

Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ

Lưu đắc đan tâm chiếu hăn thanh.

Đă chắc ai rằng nhục rằng vinh

Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngô.

Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ.

Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong.

Chí những toan sẻ núi lấp sông,

Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.

Đường mây rộng thênh thênh cử bộ

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo.

Thảnh thơi thi tập rượu bầu.

 

Vâng! “Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ”. Trên cơi đời này không ai không tự t́m cho ḿnh một nghề, một kế sinh nhai. Muốn thế trước hết phải phấn đấu học hành, phải bền chí. Muốn lập thân là phải học cho ra học. Học rồi th́ phải cống hiến cho xứng đáng, mới “Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”. Sau đó là “Thảnh thơi thi tập rượu bầu”.

Quan niệm “lao động và hưởng thụ” của Nguyễn Công Trứ minh bạch rơ ràng vậy. Nhu cầu hành lạc sau cống hiến phải chăng là tội lỗi như ai đă từng cao giọng chê trách ông.

Tôi vẫn thích đọc Lê Thước tiên sinh viết về Nguyễn Công Trứ hơn nhiều áng văn chương kẻ cả sau này. Có lẽ v́ Lê Thước tiên sinh gần Nguyễn Công Trứ về không gian sinh thành (Lạc Thiện – Uy Viễn), về thời gian viết (1858-1928) và nhất là cùng chia sẻ hiểu thấu mức giải nguyên đích thực của nhau.

“Ta đọc đến lời văn của cụ, tự nhiên sinh ḷng hăng hái, muốn đi, muốn chạy, muốn đem thân gánh vác việc đời, để giúp đời cho khỏi những nỗi bi ai khốn khổ. Ấy cũng bởi cụ đối với đời có cái quan niệm như thế. Cho nên cụ đă thổ lộ ra một áng văn chương có khí lực hùng dũng, giàu ai oán mà không làm cho bi sầu, giàu mỉa mai mà không làm cho đau đớn.

Đương cái thời đại cạnh tranh này, kẻ thời bôn xu quá đến nỗi quên mất liêm sĩ. Kẻ th́ nhu nhược quá đến nỗi sinh ra chán đời. Quốc dân ta nếu muốn chấn khởi cái tinh thần mạnh mẽ thêm lên, thời cái lối văn chương hùng tráng này há lại không nên sùng bái lắm ru.

Nói về văn thể, th́ văn cụ Nguyễn Công Trứ rất là rắn rỏi, xác thực, không kiểu cách hào nhoáng, không vu khoát hàm hồ, khi th́ lấy bản thân mà tự luận, khi lấy thế sự mà lập ngôn. Ít ra ngoài cái phạm vi nhân t́nh thế thái. Cho nên một câu văn, một khúc hát đều là một bài học rất hữu ích cho người ta về cách xử thế lập thân”.

Tôi tự nghĩ, giáo sư Giải nguyên Lê Thước viết vậy là quá đủ. Không dám viết ǵ thêm. Xin được in vào dưới đây dăm ba “cái hoa” của Hy Văn tiên sinh, gọi là thơ chứng:

 

Thất thập tự thọ thi

 

Nhật đối nhi tào tự giải di

Kim ngô bất tự cổ ngô th́.

Tùy cơ khối lỗi cung nhân tiếu,

Trục kư niên hoa giới cổ hy

Lăo thực bất kham trang diện mục,

Anh hoa an dụng nhiếm tu t́?

Tự tàm tiên liệt hào vô trạng,

Quái sát Hồng Sơn hữu thị phi.

Huế, 1848

(Hàng ngày ta sẽ cùng chơi đùa với con trẻ. Ta hôm nay không c̣n giống ta ngày xưa nữa. Ta theo thời mà làm con rối mua cười cho thiên hạ. Thấm thoắt nay đă đến tuổi cổ lai hy. Cái chân chất không phải trau tria mày mặt nữa. Vẽ tốt tươi đem nhuộm cho râu tóc để làm ǵ? Ta tự lấy làm thẹn chẳng có chút công trạng ǵ. Thôi hăy phó mặc cho núi Hồng, hạ lời khen chê).

 

Ngày cùng lũ trẻ cợt đùa chơi,

Quả thực ta nay khác trước rồi.

Múa rối mấy hồi rằng giúp nước,

Sống lâu bảy chục cũng ơn trời.

Thật th́ bao quản khoe ḿnh đẹp,

Tóc bạc xin đành kém vẻ tươi.

Những thẹn bất tài không báo bổ,

Non Hồng thôi mặc tiếng trên đời.

Lê Thước dịch

 

Đi thi tự vịnh

 

Đi không há lẻ trở về không,

Cái nợ cầm thư phải trả xong.

Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt,

Dở đem thân thế hẹn tang bồng.

Đă mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh ǵ với núi sông.

Trong cuộc trần ai, ai dễ biết,

Rồi ra mới rơ mặt anh hùng.

 

 

Vịnh Cây cau

 

Ơn chúa vun trồng kể xiết bao

Một ngày càng một rấn lên cao

Lưng đeo đai bạc sương nào nhuốm,

Đầu đội tàn xanh nắng chẳng vào.

Buồng chất cháu con khôn xiết kể,

Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào.

Ḱnh thiên một cột giơ tay chống,

Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao.

 

Chí nam nhi

 

Thông minh nhất nam tử,

Yếu vi thiên hạ kỳ.

Trót sinh ra th́ phải có chi chi.

Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.

Dố kỵ sá chi con tạo

Nợ tang bồng quyết giả cho xong.

Đă xông pha bút trận th́ gắng gỏi kiếm cung,

Làm cho rơ tu mi nam nữ.

Trong vũ trụ đă đành phận sự.

Phải có danh mà đối với núi sông.

Đi không chẳng lẽ về không.

 

 

 

Nợ tang bồng

 

Vũ trụ giai ngô phận sự

Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn.

Chí tang bồng hẹn với giang san.

Đường trung, hiếu quân thần là gánh vác.

Thơ rằng: Đă mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh ǵ với núi sông.

Nợ sách đèn đem nghiên bút giả xong.

Cầu xe ngựa lúc đi về mới tỏ.

Duyên ngư thủy hội long vân c̣n đó.

Miếng đỉnh chung cho biết mùi đời.

Nhắn trăng nhủ gió đưa người

Bẻ ngành đơn quế cho rồi liền tay.

Trần ai, ai có kém ai.

 

Gánh trung hiếu

 

Vũ trụ chức phận nội

Đấng trượng phu một túi kinh luân.

Thượng vị đức hạ vị dân

Sắp hai chữ quân thân mà gánh vác.

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,

Không công danh thời nát với cỏ cây.

Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây.

Phải hăm hở ra tài kinh tế.

Người thế giả nợ đời là thế,

Của đồng lần thiên hạ tiêu chung.

Hơn nhau hai chữ anh hùng.

 

Thua đáo

 

Ngày xuân thong thả tính thờ ơ.

Thấy chúng chăn trâu đánh cũng ưa.

Tưởng làm đôi trự (chữ) cho vui vậy.

Bỗng chốc nên quan đă sướng chưa!

 

 

 

 

 

Tự vịnh

 

Ngồi buồn mà trách ông xanh

Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.

Kiếp sau xin chớ làm người,

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

Giữa trời ghềnh đá cheo leo,

Ai mà chịu rét th́ trèo với thông.

 

Xin quỳ

 

Lật đật qua đèo nắng cực thay,

Hai cô thương đến lại cho giày.

Ơn này biết lấy chi mà trả.

Xin quỳ hai gối chống hai tay.

 

Vịnh sự đời

 

Những nghĩ xa gần khéo gớm thay,

Sự đời tráo trở giống bàn tay.

Hăy xem gương trước to tày liếp,

Mà biết ḷng người mỏng tựa mây.

Những tiếc bấc ch́ nghe đă chán,

Mấy điều cạnh khóe nói thêm gay.

Ở ăn cũng tưởng về sau với.

Giời hăy c̣n cao, đất hăy dày.

 

 

 

Vui vẻ bao dung vốn là bổn tính bẩm sinh của Hy Văn tiên sinh. Nhưng rốt cuộc đă phải thở dài bởi thế t́nh đen bạc. Cúc cung thế. Hồ hởi phụng sự thế. Vào sinh ra tử gian hiểm không sờn thế. Chỉ v́ ḷng trung nên quá trực đă thẳng thắn can gián vua đừng xua quân đi sâu vào đất lạ vừa phi nghĩa vừa nguy. Thời cơ xưa không trở lại. Thất bại bày ra trước mắt. Vua không nghe, lại thù ghét, tàn nhẫn, đày ông, một vị trọng thần lắm công huân nhường ấy, xuống làm lính thú biên pḥng. Có người c̣n cho v́ cả tài thơ mà ông thêm nạn. Cũng có thể. Vậy ra, tên, hiệu ông như thể để ứng phó đời mà ông sẽ trải qua. Nghiệm ra dường như có lí.

Một Nguyễn Công Trứ của bàn dân. Một Hy Văn của bằng hữu. Một Tồn Chất trước kẻ thù. Một Ngộ Trai (để vô chấp) trước cường quyền áp chế. Tùy t́nh, tùy thế mà vận dụng để đối nhân xử thế cho phù hợp là tất cả đă ở trong Uy Viễn tướng công. Vị tướng, mà ở bất cứ lĩnh vực nào, hoàn cảnh nào cũng ung dung, an nhiên, tự tại. Thằng nhải nhép đứng trên ḿnh, ông vẫn cười, dường như không để ư.

Nhà Nho, nhà Nông, nhà Quân sự, nhà Thơ, nhà Văn hóa, nhà Kinh tế, nhà Kiến trúc,… Tồn Chất - Nguyễn Công Trứ, măi măi là tấm gương sáng cho mọi thế hệ.

“Cũng may thay, công đăng hỏa có là bao, theo đ̣i vừa phận lại vừa duyên, quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám chín phen, nào cờ, nào quạt, nào măo, nào đai, nào hèo hoa gươm bạc, nào vơng tía, dù xanh, mặt tài t́nh trong hội kiếm cung, khắp giời nam bể bắc cũng tung hoành, mùi thế trải qua ngần ấy đủ.

Thôi quyết hẳn, cuộc phong trần chi nữa tá, ngất ngưỡng chẳng tiên mà chẳng tục, hầu gái một vài cô, hầu trai năm bảy cậu, này cờ, này kiệu, này rượu, này thơ, này đàn ngọt hát hay, này chè chuyên chén mẫu, tay thao lược đă ngoài ṿng cương tỏa, lấy gió mát trăng thanh làm tri thức, tuổi già ít nữa ấy là hơn”.

 

VII. LỜI KẾT

 

Nguyễn Công Trứ sống 22 năm (1778-1800) cho thế kỉ XVIII, được các Giáo sư sử học mệnh danh là thế kỉ khởi nghĩa nông dân và 59 năm cho thế kỉ XIX, là thế kỉ xây dựng vương triều Nguyễn gắn liền với quá tŕnh xây dựng một nhà nước Việt Nam thống nhất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau mà các triều  đại trước chưa vươn tới. Đó là bước chuyển ḿnh của cả dân tộc đi t́m sự hoàn thiện cho đất nước. Từ xu thế và nhu cầu thống nhất lănh thổ, nhà Nguyễn, cụ thể là vua Nguyễn Thánh Tổ, đă phân định ranh giới, sắp xếp lại các đơn vị hành chánh trên phạm vi toàn quốc đồng thời bổ nhiệm quan lại quản lí từng vùng lănh thổ trong một thể chế chung của quốc gia. Bởi thất vọng tôn giáo, hoặc, bởi đụng chạm đến quyền lợi vị kỉ do tập tục cát cứ cổ truyền để lại (không loại trừ âm mưu phá hoại từ bên ngoài), làm dấy lên mâu thuẫn cục bộ. Một vài giáo phận, một vài tù trưởng miền núi đă gây nên không ít khó khăn cho sự nghiệp xây dựng đất nước trước nguy cơ xâm lược của tư bản phương Tây. V́ lợi ích toàn thể, lợi ích quốc gia, đương nhiên Nhà nước quân chủ tập quyền muốn vững mạnh buộc phải thanh toán. Nguyễn Công Trứ là con người của hôm trước và con người của hôm sau xuất hiện trong giai đoạn đặc trưng nhất của lịch sử dân tộc. Ông là dấu nối giữa hai thời ḱ phân liệt tan ră (bởi nội chiến) và hàn gắn phục hưng (bởi nhu cầu thống nhất) trở thành người tiên phong dẹp loạn, tiên phong khai hoang lập ấp, tiên phong đề xuất tổ chức lại quân đội và xây dựng pháo đài pḥng thủ. Từ bối cảnh đó, một con người văn vơ song toàn như ông, mặc nhiên phải đứng về phía ngày mai của một quốc gia thịnh vượng, hùng cường. Bởi thế, ở bất ḱ lĩnh vực nào, nếu ông có mặt, dù gián tiếp vẫn đọng lại dấu ấn mang tầm trí tuệ, mang tính thời đại điển h́nh.

Ông là nhà Nho. Điều đó khỏi phải bàn. Đậu giải nguyên một khoa thi Hương đầu thế kỉ XIX, thế kỉ mà Nho giáo đang vươn lên giành vị trí chính thống trong toàn xă hội.

Ông là nhà Nông. Việc ra đời các khu dân cư nông nghiệp: Tiền Hải, Kim Sơn, Hoành Thu, Ninh Nhất, Yên Hưng, Hoa Phong, Nghi Dương,… xác nhận điều đó.

Ông là nhà Quân sự. Không kể pháo đài, đồn lũy, mà ông xây dựng. Không tính vơ công mà ông lập nên, sớ tấu xin tổ chức lại quân đội thường trực, chỉ riêng việc giải quyết vụ bạo loạn tại Trà Lũ năm Đinh Hợi, 1827, Nguyễn Công Trứ trên cương vị H́nh tào Bắc thành đóng vai “Tham mưu trưởng” mặt trận đă đề xuất kế hoạch tác chiến tránh tấn công tràn lan, gây nên cảnh đầu rơi máu chảy cho người vô tội. Phân loại, vây tách Phan Bá Vành và những tên đầu sỏ ra khỏi bộ phận Giáo dân ngoan đạo, tạo điều kiện thời gian cho những người lương thiện bị lừa gạt, cưỡng ép bỏ cuộc trước, sau đó mới dùng toàn lực tiêu diệt nhóm hung thủ liều lĩnh. Chỉ thế thôi cũng đủ cho chúng ta thấy ở ông, một nhà quân sự có tài và có tấm ḷng người. V́ vậy, sau khi Phan Bá Vành bị tiêu diệt, bộ phận giáo dân nghèo khổ, kể cả những người hữu sản ở Trà Lũ, trót lầm lỡ đă lục tục theo ông sang Kim Sơn khai hoang lập làng. Các tổng Lai Thành, Hồi Thuần, Chất Thành, Quy Hậu, Tự Tân,… ra đời mang đậm tính nhân văn bởi tấm ḷng ưu ái, đại lượng của Ngộ Trai Tiên sinh. Và điều rơ hơn ở Nguyễn Công Trứ là chính ông đă dâng sớ lên nhà vua Nguyễn Thánh Tổ xin vào tham chiến tại mặt trận tây nam, cũng chính ông là người dũng cảm dâng sớ lên nhà vua Nguyễn Hiến Tổ xin rút toàn bộ tướng sĩ ra khỏi Trấn Tây thành, để xây dựng t́nh ḥa hiếu giữa hai dân tộc. Ông bị mất chức Tham tán quân vụ, bị cách tuột xuống làm lính, bị tai họa dài dài, c̣n nhiều lẽ, nhưng điều nặng nhất là không thực hiện tham vọng lănh thổ của nhà vua. 66 tuổi, từ một đại thần, một Tham tán giờ đây lại lủng lẳng dao tu, nón lá làm anh lính biên pḥng, Tồn Chất vẫn thản nhiên như không. Bởi điều cao lớn trong ông, chính là lẽ đúng-sai phải biết nh́n cho thấu. Nhà vua không thấy hết. Nhưng càng về sau, những ǵ c̣n đọng lại ở Trần Tây thành, người đời càng hiểu ông hơn.

Ông là nhà Giáo dục. Không tính đến những lần được nhà vua nguyễn Thánh Tổ phái làm sơ khảo trường Trực Lệ (Kinh đô), phúc khảo trường Sơn Nam (1821), chủ khảo trường Hà Nội, ngay thời gian c̣n là thư sinh dùi mài kinh sử ông đă là thầy giáo, đậu giải nguyên vào kinh có lúc đă giữ chức Tư nghiệp Quốc tử giám, tư tưởng giáo dục thường trực trong ông ở bất cứ bối cảnh nào. Khai hoang lập làng là ông đă nghĩ ngay đến việc học hành, thi cử, trích “học điền” dựng trường ốc phân minh. Đ́nh thần bác sớ ông nhưng dân sở tại th́ ngang nhiên thực hiện. Làm quan hay làm tướng, hễ có thời gian là ông tham gia b́nh giảng tứ thư ngũ kinh, cho đồng liêu, cho bằng hữu. Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị là một trong số những người đă từng thụ giáo và tiếp nhận được nhiều tư chất nơi ông, qua h́nh thức này.

Ông là Kiến Trúc sư. Với các tuyến đê ngăn mặn, khu dân cư nền nếp, có quy hoạch định hướng, nằm giữa hệ thống kênh đào, cầu cống, đường sá ở những vùng quê do ông lập nên, đủ thể hiện danh vị đó. Là Tham tán quân vụ, chỉ huy một cánh quân dẹp loạn vẫn nh́n ra địa thế xây dựng thị tứ Tuyên Quang. Là một Tổng đốc trăm công ngh́n việc vẫn dành th́ giờ tính toán xây dựng thành trấn Quảng Yên, căn cứ Thủy quân Đồ Sơn,… Nguyễn Công Trứ xứng đáng với danh nghiệp đó.

Ông là nhà thơ.

Ông là nhà văn hóa. Nếu ca trù được coi là một thể hát nói th́ cũng có thể nên được coi là tiền thân của thể thơ mới về sau. Thời mà mọi tao nhân mạc khách lấy chữ Hán và luật Đường làm mẫu mực thơ phú, Nguyễn Công Trứ lại chơi Nôm và thiên về ca trù. Ông đă thành công như mở ra một hướng tự chủ cho mọi nhà thơ hậu thế. Thơ mới mạnh dạn thoát thai từ lối ṃn khuôn phép nên được nghĩ đến người khai quang. Ông là người Thầy, người Cha của ca trù (bao gồm cải biên và sáng tạo), ông c̣n là tác giả của tuồng, bội, câu đối Nôm, để một thời rộn lên loại h́nh hát nói trong dân gian.

Trên phạm vi cả nước th́ không dám nói. Riêng trong bàn dân xứ Nghệ xưa, mỗi người trong đầu chí ít có một câu của Nguyễn Công Trứ hay về Nguyễn Công Trứ. Theo dấu chân ông trên dặm đường đất nước, thơ ông, giai thoại về ông và dấu ấn một thời ông vẫn bền trong kí ức tôi. Những công tŕnh quốc pḥng, dân sinh có công đóng góp bằng trí, bằng ngôn, bằng sức của ông cái c̣n cái mất, là luật biến hóa thiên thời. Nhưng, nhân dân những vùng đất đă từng in dấu chân ông th́ mỗi ngày mỗi nhớ. Hàng năm, con em của họ dù ở cương vị nào, vẫn nhớ về làng quê Uy Viễn dâng hương.

Xin dâng lên hương hồn ông một nén tâm nhang đạm bạc

 

Chẳng có pháo chào Xuân, tống cựu mơ hồ, nhớ Uy Viễn Tướng công cố chép đôi ḍng trao hậu thế.

Không nhiều hoa đón Tết, nghinh tân lặng lẽ, thương Hy Văn Đại sĩ t́m ghi vài đoạn gửi mai sau.

                                                      

Xóm An Lạc, 20.10.2003

                                                                

Mai Khắc Ứng