Tiếng D

Trn Huin Ân

 

 

 

 

 

 

       

 

 

 

 

 

 

Tự điển định nghĩa: Dạ tiếng lễ phép đáp lại lời gọi, lời nói của người, tỏ rằng mình đã nghe - hoặc : tiếng mở đầu của câu nói lễ phép.

        Vậy, dùng với nghĩa nào, gốc rễ của tiếng dạ vẫn lễ phép. Cho dẫu đôi khi không tâm phục dạ một cách hững hờ, hoặc tỏ ý phản kháng dạ một cách xẳng xớm, thậm chí tệ hại hơn nữa chỉ dạ trước mặt thì cái hững hờ, cái xẳng xớm ấy đã phải nép mình trong khuôn lễ phép điều xấc láo kia chỉ dám diễn ra sau lưng.

        Một dạo, người bảo rằng tiếng dạ mang tính phong kiến, phải thay bằng tiếng . Được gọi, đáp chứ không dạ. May thay, tiếng khô khan ấy không đi được vào phong tục tập quán.

        Trên sân khấu vị tướng lãnh giáp trụ uy nghi lớn tiếng gọi ba quân, lập tức trong hậu trường đồng thanh vang lên dạ. Tiếng dạ phản ảnh sự đồng tâm nhất trí trên dưới một lòng của người chiến nơi trận mạc.

        Cũng khi tiếng dạ tuy đồng thanh nhưng gượng gạo, chỉ chịu khuất phục trước quyền uy. Tác giả Túy Kiều phú (khuyết danh) vẽ lại cảnh khi Kiều bị bắt cóc về nhà Hoạn :

                        Giường bát bửu một ngồi đó

                        Thét vang lừng bốn phía dạ rân

                        Quân ra oai tay tuốt gươm trần

                        Kiều khấp khởi hồn nương mây bạc

 

        Ôi, trước một người con gái lạc lõng yếu đuối Thiên quan trủng tể phu nhân phải huy động cả đám bộc lăm lăm khí trong ngoài dạ rân áp đảo thì ràng tài sắc đáng mặt cho quyền uy nể sợ.

        Một tiếng dạ thôi đã cho thấy tâm , tình cảm của người đời.

        Đáng thương tiếng dạ của hoàn cảnh người con gái :

 

                Ai kêu ai bên sông

                Mẹ kêu, con dạ - thương chồng phải theo

 

        Miền Bắc phân biệt : Gọi - dạ, bảo - vâng.

Miền Nam tiếng vâng ít được dùng. Gọi - dạ, bảo cũng dạ. Thế nhưng qua cường độ âm thanh tính cách lắng đọng trong đó ta phân biệt được rạch ròi. Tiếng dạ bình thường nghĩa đã nghe, đang chờ sai bảo. Tiếng dạ hơi cao như ẩn trong đó một dấu hỏi, nghĩa chưa nghe , xin nói lại. Tiếng dạ trầm xuống nghĩa đã hiểu, xin làm theo.

        Người cha đứng hơi xa, gọi con :

        - ơi !

        -Dạ . (Âm thanh trung bình, nghĩa đã nghe, đang chờ sai bảo)

        - nhà bếp lấy cái cuốc đem ra đây.

        -Dạ ? (Âm thanh hơi cao, nghĩa con nghe chưa , xin cha nói lại).

        Người cha lặp lại câu nói.

        -Dạ ! (Âm thanh trầm xuống, nghĩa con nghe hiểu , làm theo lời sai bảo ngay).

        Nhiều khi người nhỏ tuổi gọi, người lớn tuổi hơn lịch sự, tôn trọng học vị hay chức vụ đáp dạ, khiến người nhỏ tuổi áy náy, từ chối.

        lần tôi nghe một vị trưởng quan trẻ tuổi, người Bắc, gọi một nhân viên lớn tuổi :”Bác Quyến ơi!”. Ông Quyến đáp:”Dạ. Vị trưởng quan nói:”Không dám, bác dạ Trời ạ. Thật lễ phép lịch sự.

        quê tôi không câu nói văn vẻ ấy. Thường thì người trẻ tuổi xuýt xoa phân trần một cách thật thà :”Trời ơi ! Bác dạ vậy cháu mang tội chết. Nếu xấp xỉ nhau dạ, người nói :”Không dám, trả cái dạ lại cho anh (chị). Đôi người vui tính thêm ba tiếng nữa sau một giây ngập ngừng: để đong lúa. (Dân Phú Yên phát âm vâng dạ giạ lúa như nhau). Cái thật thà này tuy quê mùa một chút nhưng vẫn hóm hỉnh, đáng yêu.

        Thi Đỗ Huy Nhiệm người gốc Phú Yên, tác giả các tập thơ Khúc ly tao (1934), Thiên diễm tuyệt (1936) bài thơ Quay về vườn ruộng tả cảnh đôi vợ chồng kia chán cảnh phồn hoa, trở về nơi thôn . Một hôm

                                Đêm khuya chồng gối lên tay vợ

                                Khe khẽ ngâm câu biệt thị thành

                                Rồi nhủ: Mình ơi, đời Tấn trước

                                Đào Tiềm hai bận dứt công danh

                                Quay về vườn ruộng như ta đó

                                Mình nghĩ không? Nói thực mình !”

                                Vợ dạ, trở mình cho bớt lạnh

                             Suốt đời em chỉ biết theo anh…

        Tiếng dạ và câu nói của người vợ, biểu hiện trọn vẹn niềm chung thủy thâm tình của lứa đôi hạnh phúc.

 

Trần Huiền Ân