Thư Quán Bn Tho s 59

“Tưởng Nim Phùng Thăng”

Vương Trùng Dương

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trước đây, trong phần Giới Thiệu Sách Báo như thường lệ trên nguyệt san Tân Văn, khi giới thiệu về Thư Quán Bản Thảo số 56, tôi đă viết: “Thư Quán Bản Thảo số 56, tháng 6 năm 2103 đă được ấn hành và gởi đến thân hữu, độc giả khắp nơi. Trải qua 13 năm, số 56 nầy tưởng chừng đ́nh bản v́ tai nạn xảy ra trong gia đ́nh anh Trần Hoài Thư – chị Nguyễn Ngọc Yến, hiền thê của anh – bị stroke, phải nằm bệnh viện để điều trị vào cuối năm 2012, trước ngày ấn hành TQBT số 55…”.

TQBT do anh Trần Hoài Thư chủ trương và vài thân hữu cùng nhau thực hiện nhưng “cánh tay đắc lực” nhất là chị Nguyễn Ngọc Yến âm thầm hỗ trợ cho chồng để hoàn thành “đứa con tinh thần” cho đến khi đến tay thân hữu và bạn văn. V́ vậy, số phận của TQBT tùy thuộc vào t́nh trạng sức khỏe của anh chị.

Trải qua một năm chăm sóc người bệnh. Tháng Giêng năm 2014, Trần Hoài Thư viết những ḍng chia sẻ:

“Bây giờ tôi trở thành một kẻ nội trợ săn sóc nhà cửa. Cả năm nay Y. chỉ quanh quẩn với xe lăn, cùng căn pḥng bề bộn thuốc men, và cây kiểng. Tôi phải làm những ǵ mà Y. đă làm trước đây. Đổ rác. Dọn dẹp nhà cửa. Rữa chén bát. Giặt giũ quần áo. Viết bill. Đây là những việc mà cả đời tôi chẳng bao giờ  đụng tay vào.  Nhưng cuối cùng, hoàn cảnh đă bắt một lăo già, lẽ ra hưởng già, hưởng nhàn, th́ bây giờ phải túi bụi, nhọc nhằn hơn ai.

Tôi có thể bán cái cho nursing home mà. Tôi có thể đẩy Y. vào một nơi được lập ra để giúp tôi hưởng già mà. Tôi có đầy đủ lư do, không cảm thấy xấu hổ, hay hổ thẹn với lương tâm, v́ tôi không c̣n đủ sức để lê đôi chân bị Gout, hay phải bị kiệt lă v́ tuổi già sức yếu. Cái quyết định vào nursing home là quyết định của Y. cũng v́ những lư do ấy. Hy sinh đời ḿnh v́ không muốn thấy nỗi khổ nạn của kẻ khác. Và đó cũng là quyết định của cô thuộc sở xă hội được phái đến để thẩm định hoàn cảnh chúng tôi. Cô hỏi Y. bà có muốn vào nursing home không. Y. trả lời yes. Tôi nói là tôi không muốn để vợ tôi vào đấy.

Nhưng cô nói ông đừng bận tâm. Nếu ông không lo được cho bà th́ hăy để người khác lo cho bà. Ông hăy giữ ǵn sức khỏe của ông trước tiên. Ở trong nursing home, có người sẽ tập cho bà đi đứng…

Tôi nghe lời bà. Và kư vào giấy để Y. vào nursing home…

Vậy mà cuối cùng tôi lại gọi bà để xin được hũy bỏ. Tôi nói là tôi không thể để vợ tôi vào. Tôi có thể  gánh vác trách nhiệm như là một primary caregiver. Tôi cũng gọi cô cán sự xă hội. Tôi cũng gọi sở xă hội. Họ đều nói chúng tôi hiểu và thông cảm. Họ không quên chúc tôi một mùa Lễ đầy vui tươi hạnh phúc.

Tôi đă chọn cho tôi một quyết định. Tôi không cần nghĩ ngợi đắn đo ǵ hết. Tôi không cần biện giải ǵ hết. Chọn và chấp nhận. Bởi v́ lúc này Y. rất cần tôi. Và tôi cũng rất cần Y…”.

 

*

 

Tôi gặp Trần Hoài Thư lần đầu tiên tại Vũ Đ́nh Trường ở Trường BB Thủ Đức vào tháng Giêng năm 1967, cách đây hơn 47 năm. Khi đó chúng tôi ở trong Ban Bao Chí của liên khóa SVSQ đảm trách nguyệt san của quân trường nầy. Trần Hoài Thư từ nhà giáo trở thành kẻ bất cần đời, một thời sống phiêu bạt giang hồ, trinh sát,  nay đây mai đó, cơm hàng cháo chợ, ngủ với “khách sạn ngàn sao”, vào sinh ra tử… Thế nhưng, tuổi già, Trần Hoài Thư đă “chôn chân một chỗ” với hiền thê nơi xứ lạnh. Và, mối t́nh già của anh chị rất cao đẹp, quư hiếm, thuận vợ thuận chồng với tấm ḷng muốn làm sống lại “Di Sản Văn Chương Miền Nam” trước năm 1975. Ngoài các công tŕnh qua các tác phẩm đă ấn hành, Thư Quán Bản Thảo là minh chứng cụ thể.

Tờ Phụ Nữ Tân Văn ngày 10.3.1932 tŕnh làng bài thơ T́nh Già của Phan Khôi (1887-1959), lúc đó tác giả vẫn c̣n trẻ.

“Hai mươi bốn năm xưa,

Một đêm vừa gió lại vừa mưa.

Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,

Hai cái đầu xanh kề nhau than thở:

- Ôi đôi ta, t́nh thương nhau th́ vẫn nặng,

Mà lấy nhau hẳn là không đặng,

Để đến nỗi, t́nh trước phụ sau!...

Hai mươi bốn năm sau.

T́nh cờ đất khách gặp nhau.

Đôi cái đầu đều bạc.

Nếu chẳng quen lung đố nh́n ra được.

Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,

Con mắt c̣n có đuôi”.

Bài thơ T́nh Già ẩn chứa mối t́nh dang dở nhưng vẫn canh cánh trong ḷng. Khi nhắc đến Thơ Mới thời tiền chiến, đây là bài thơ tiêu biểu. Ở tuổi thất thập, Trần Hoài Thư chia sẻ cùng thân hữu và bạn văn t́nh già của anh với người bạn đời mối t́nh hiếm có, cao đẹp và trân quư.

Qua bốn thập niên chung sống với nhau, t́nh già của Trần Hoài Thư bày tỏ vối 4 câu thơ trong thi phầm Xa Xứ ấn hành năm 2010:

“Cảm tạ mỗi ngày em vẫn cho tôi

Niềm vui khua ḍn trên bàn máy gơ

Những niềm vui mỗi ngày mọc lên nho nhỏ

Xứ xanh hoài trên khung cửa hồn tôi”.

Sách ơi! Thư ơi! Khi cha mẹ đặt tên anh và bút hiệu anh chọn như định mệnh đă an bày. Chị Yến mang lại cho anh mùa xuân trong hành tŕnh với chữ nghĩa. Chị Yến cho anh nhựa sống, niềm vui, hơi thở… nhưng chẳng may lâm bệnh và anh đền đáp lại niềm an ủi vô biên cho chị. Phạm Văn Nhàn viết: “Phải chi chị Yến đừng ngă bịnh th́ có lẽ giờ phút nầy, cho dù miền Đông Bắc Hoa Kỳ có đổ những cơn băo tuyết nặng đến đâu chăng nữa th́ hai anh chị cũng lái xe đến thư viện Mỹ để t́m thêm tư liệu để viết. Đằng này, mỗi ngày hầu như hết 98% thời gian anh phải chăm sóc cho người vợ đáng thương kia. Chỉ cón 2% thời gian trong ngày mà anh vẫn không bỏ ư định làm nên những sự việc văn học”.

Trước khi chị Yến lâm trọng bệnh, hai vợ chồng ngày đêm lui cui ở basement với “nhà in tự chế” để in, xếp trang, đóng, cắt, gói… rồi ra Bưu Điện gởi tặng thân hữu. Tác phẩm & Thư Quán Bản Thảo không bán, chỉ biếu, và tùy ḷng hảo tâm của thân hữu, bạn văn đóng góp. Trải qua thời gian dài vẫn như vậy. Từ trước đến nay, chưa có ai hy sinh công sức và tiền bạc để theo đuổi hoài băo như vậy. Trong blog của TQBT có ghi: “Muốn có báo xin gởi thư về chúng tôi. Nếu ngại phải mang nợ th́ kèm tem, kèm tiền. Nhưng hăy để chúng tôi có được cái quyền từ chối để chứng tỏ có tiền nhiều khi mua TQBT cũng không được! Nếu ở trong nước th́ chờ có ai quen về VN, nhờ họ mang về  dùm”.

Mỗi lần đi t́m tài liệu để thực hiện chủ đề cho TQBT, từ New Jersey, khoảng 5 giờ lái xe đến thư viện đại học Cornell ở vùng thượng tiểu bang New York, khoảng 3 giờ lái xe đến thư viện đại học Yale ở tiểu bang Connecticut. Đó là hai thư viện chính được lưu trữ sách, báo của Việt Nam. Ngoài ra c̣n có vài thư viện nhỏ ở Miền Đông HK được bạn bè giới thiệu. Giờ đây, THT không c̣n thơi gian rong ruổi!

 

*

Thư Quán Bản Thảo số ra mắt sau biến cố 9/11 đến nay đă được 14 năm. TQBT 59 “Tưởng Niệm Phùng Thăng”, nữ dịch gỉa nổi tiếng đă chết thê thảm vào tháng 6 năm 1975 bởi quân tàn bạo Khmer Đỏ. Gần bốn thập niên qua, h́nh ảnh Phùng Thăng đă phai mờ theo năm tháng!

Trong TQBT 59, anh Trần Hoài Thư cho biết: “Với số báo kỳ này, bề dày là 280 trang, th́ hai trăm trang đều dành cho PT. Đó là một chuyện lạ lùng khi tôi nghĩ sẽ chẳng bao giờ làm nổi. Sao mà làm được khi tôi là một primary caregiver phải tất bật với những công việc phải chăm sóc một người bạn đời bị bán thân bất toại, tôi  không thể rời nhà hơn một tiếng đồng hồ, khi mà PT ra đi chẳng để lại dấu vết. Hay chẳng ai bận tâm nhắc nhở… Ngay cả những tác phẩm mà PT để lại cho đời cũng xem như mơi mắt trông t́m như Buồn Nôn, Những Ruồi, Sói Đồng Hoang… Vậy mà bây giờ tôi có đủ. Có cả chứng liệu  Koh Tang. Có cả Thổ Chu. Có cả hồi kư của ông đại sứ… Có cả cảnh hai mẹ con bị trói chặt… Có cả học tṛ viết về cô giáo dạy Triết lúc cô mới 23 tuổi, mà bây giờ, cứ nhắc đến một mùi hương kỳ lạ, và một màu áo đen không bao giờ quên, hay có cả những Kẻ Lạ Ở Thiên Đường, một tác phẩm mà chưa ai nhắc, khi PT quyết tâm dịch, dù sau những ê chề bởi những trang phê b́nh hằn học chê bai về cuốn “Những Ruồi”…

Ví dụ cuốn Kẻ Lạ Ở Thiên Đường của Simone Weil do PT dịch. Người thân của PT cho biết bản thảo đă bị thất lạc sau năm Mậu Thân. T́m trên Net, không có dấu vết. T́m qua các thư mục trên mạng của Yale, Havard, Cornell hay Quốc Hội Hoa Kỳ: cũng không. T́m ở thư viện Sai G̣n, Hà Nội có tầm cở quốc gia cũng không. Vậy mà tôi lại t́m ra nó – tại một thư viện tỉnh…”.

Dịch giả Phùng Khánh - Ni Sư Trí Hải (1938-2003) tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh và dịch giả Phùng Thăng (1943-1975) là hai chị em ruột. Gia đ́nh hoàng tộc rất mộ đạo Phật. Thân phụ là cụ Nguyễn Phước Ứng Thiều, cháu nội của Tuy Lư Vương Nguyễn Phước Miên Trinh. Phùng Thăng theo học ban Triết, Đại Học Văn Khoa Huế. Giáo sư Triết tại trường trung học Trần Quư Cáp Hội An. Trong thời điểm đó v́ không khí chính trị ngột ngạt ở địa phương nên lên nương thân ở Di Linh và dạy Anh Văn trường trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Sau khi chia tay với người bạn đới Trần Xuân Kiêm (Chơn Hạnh), Phùng Thăng về Sài G̣n.

Những tác phẩm nổi tiếng đă được ấn hành qua dịch giả Phùng Khánh & Phùng Thăng:

- Buồn Nôn của J.P Sartre (Phùng Thăng dịch)

- Sói Đồng Hoang của Hermann Hesse (PT dịch chung với Chơn Hạnh)

- Câu Chuyện Ḍng Sông của Hermann Hesse (dịch chung với Phùng Khánh)

- Những Ruồi của J.P Sartre (Phùng Thăng dịch)

- Kẻ Lạ Ở Thiên Đường củaSimone Weil (Phùng Thăng dịch)

Ngoài ra, với bút hiệu Tuệ Không (sau nầy Phạm Thiên Thư lấy pháp danh Thích Tuệ Không), đổi sang Huệ Minh qua các bài viết về Triết Học và Phật Học.

Sau biến cố tang thương 30-4, đầu tháng 5-1975 Phùng Thăng dẫn con gái Tiểu Phượng mới 9 tuổi t́m đường vượt biên. Theo ghe ra đảo Thổ Chu thuộc Kiên Giang với hy vọng được tàu Mỹ đón nhưng quá trễ. Quân Pol Pót lợi dụng lúc đảo không c̣n chính quyền, tấn công chiếm đảo vào ngày 10 tháng 5, lùa theo 515 người giải vế đất Kamphuchia. Sau nhiều năm bặt tin, năm 1981 anh Trần Xuân Kiêm lên Đà Lạt gặp thầy Chiêm. Theo lời thầy Chiêm th́ không chết trên biển mà chết tập thể cùng với con gái và người cháu ruột. Oâng nói bị đập đầu vào gốc cây mà chết… khoảng 10 tháng 6 năm ất Măo. V́ vậy Ni Sư Trí Hải chọn ngày ấy làm ngày giỗ Phùng Thăng.

TQBT 59, số Tưởng Niệm Phùng Thăng với các bài viết của Trần Hoài Thư, Thái Kim Lan, Phạm Văn Nhàn, Phay Van, Thinh Văn, Đào Anh Dũng, Trần Văn Nam… THT và Nguyễn Lệ Uyên phỏng vấn những cây bút nói về Phùng Thăng: Nguyễn Vy Khanh, Khuất Đẩu, Diệu Hoa. Văn liệu sưu tầm trích từ bản dịch của Phúng Khánh và Phùng Thăng. Thơ của Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Đức Sơn, Huy Tưởng, Đinh Cường, Trần Thị Nguyệt Mai…

H́nh b́a TQBT 59 với chân dung Phùng Thăng và bé Tiểu Phượng qua nét vẽ Đinh Cường. Ảnh tư liệu sưu tầm được do thân hữu chuyển cho ĐC & THT.

Theo quan niệm của Nguyễn Vy Khanh: “Với văn học miền Nam thời 1954-1975 cũng như đối với văn học nói chung, dịch thuật đă và đang đóng vai tṛ hết sức quan trọng, trong việc phổ biến, tiếp cận các khuynh hướng văn chương của nước ngoài cũng như sáng tạo văn học nghệ thuật; bộ phận dịch thuật và văn học nước ngoài phát triển th́ các ngành văn học cũng phát triển, cập nhật theo… Phần đóng góp của hai dịch giả (Phùng Khánh & Phùng Thăng) dù không nhiều về số lượng như các dịch giả khác, nhưng thật sự đáng kể trong cuộc vận động văn nghệ và văn hóa sau năm 1964…”.

 

*

 

Như đă đề cập ở trên, trước khi nói về TQBT 59, viết lung khởi về trường hợp hiện nay của anh chị THT để nói lên tấm ḷng và sự quyết tâm của anh về h́nh ảnh dịch giả Phùng Thăng đă chết thê thảm lúc c̣n trẻ. Phùng Thăng đă đóng góp cho nền dịch thuật văn học Miền Nam nhưng bị. lăng quên với số phận nghiệt ngă của chị. Điều đáng xấu hổ, ở trong nước ấn hành bản dịch của Phùng Thăng nhưng để tên dịch giả ở trang b́a sau. Theo lời người bạn văn nói với tôi, không để tên Phùng Thăng mà lấy tên lạ hoắc nhưng đối chiếu y chang! Trong Thư Ṭa Soạn, anh THT  chỉ viết: “Với niềm mong mỏi vô biên: Hăy trả những ǵ của Phùng Thăng về lại cho Phùng Thăng”.

Quư thân hữu và bạn văn muốn có món quà lưu niệm nầy, liên lạc với THT qua email tranhoaithu@verrizon.net

 

Little Saigon 4-2014

Vương Trùng Dương

 

nguồn: nhận từ tác giả