Thương vay khóc mượ

Trn Văn Giang

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lời rào trước:

Đây không phải là một bài phê b́nh văn học hay tranh luận nghệ thuật. Đây chỉ là một bài phiếm luận “bỏ túi” đọc để cho vui cuối tuần.


*

Tôi không hiểu tại sao phe ta cứ nhắm mắt nhắm mũi ca ngợi một số thi ca nhạc cận đại loại khơi khơi trích dẫn điển tích Tàu, rồi lại cất công công kênh các bài này lên thành “thi / nhạc phẩm bất hủ" của dân Mít. Vấn đề thương vay khóc mượn được thể hiện qua sự vô t́nh hay cố ư sử dụng các chữ xúc phạm (derogative wordings) đến cả danh dự dân tộc ḿnh gồm những chữ Hán, điển tích Tàu, địa danh Tàu, nhân vật Tàu. Nói cách khác là tự ḿnh chửi bố ḿnh – self-humiliation!


Trong thời kỳ Bắc thuộc trên ngàn năm; và cũng ngay sau kỳ Bắc thuộc, v́ văn hóa của dân tộc Việt bị Tàu vùi dập triền miên, khi bắt đầu chập chững t́m một lối đi trong giai đoạn mới dành độc lập... cho nên không trách được, v́ c̣n ở t́nh trạng sơ khai, mới khởi đầu th́ vấn đề cần phải vay mượn (y hệt như nhà nghèo muốn đi buôn phải t́m cách mượn vốn) từ Tàu cũng dễ hiểu. Chẳng hạn, nh́n qua một số tác phẩm văn chương cổ của Việt Nam như Bích câu kỳ ngộ, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Đoạn trường tân thanh... đều thuần túy vay mượn nội dung và h́nh thức văn hóa Tàu. Nhưng mà ngày nay, thế kỷ 21 rồi, “tự lo độc lập…” kể cũng đă hơi lâu rồi, vậy mà thơ văn nghệ sĩ vẫn c̣n ráng tiếp tục thương vay khóc mượn th́ nghe thật bẽ bàng, thấy ngán ngẩm chè đậu...


Tôi xin nêu ra đây vài thí dụ điển h́nh.


1- Bài "Ḥn Vọng Phu" của Lê Thương.


Tôi chẳng ưa ǵ cs, nhưng tôi thấy việc cs cấm bài "Ḥn Vọng Phu 1" (qua lời phê b́nh thơ nô Chế Lan Viên) cũng có chuyện để nói.


“Bên Man Khê c̣n tung gió bụi mịt mùng.
Bên Tiêu Tương c̣n thương tiếc nuối ngàn trùng.
Người không rời khỏi kiếp gian nan,
người biến thành tượng đá ôm con…”


Nói về "Bên Man Khê" là ca ngợi việc Mă Viện đánh dẹp “mọi” ở phương Bắc (Tàu gọi các dân tộc kém văn minh sinh sống ở phương Bắc là “rợ” Hồ). “Chinh Phụ Ngâm khúc” có câu :


“Tiếu hướng Man Khê đàm Mă Viện.”

Bà Đoàn Thị Điểm dịch là:

“Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.”


Chính chú ba “Phục Ba” tướng quân Mă Viện này của nhà Hán đă tiêu diệt cuộc nổi dậy dành độc lập của Hai Bà Trưng (Tàu cũng gọi dân Ta là “mọi” - "Nam Man") ở phương Nam. Nhắc đến, hoặc ca ngợi sự chiến thắng vẻ vang của chú ba Mă Viện là một quốc sỉ, không có ǵ là hay cả…


"Bên Tiêu Tương" ở đây cũng lại chỉ về đất, địa danh bên nước Tàu, không phải là đất nước Ta, v́ trong bài thơ của “Chinh Phụ ngâm khúc” bản tiếng Nôm của Đoàn Thị Điểm có đoạn:


“Đoái trông theo đă cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng c̣n ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hăy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương...


Lịch sử chiến đấu chống xâm lăng của Tàu, hay “sự nghiệp mở mang bờ cơi” lấn đất của dân Chàm, Cao miên... của dân tộc Việt Nam ta làm ǵ mà có chuyện lệnh vua cho xuất quân tuốt luốt ở sông Tiêu Tương (Hàm Dương) măi tận bên Tàu?! Bác Lê Thương kể ra hơi vung tay quá đà.



2- Bài "Hương Xưa" của Cung Tiến.


Bài này được ca ngợi không hết lời là một bài hát bất hủ của nền tân nhạc Việt Nam cận đại. Thử đọc lại một vài ḍng trong bài hát này:

T́nh Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa

Cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô-tô


Xin nói cho rơ. "Nhị Hồ" ở đây không phải là địa danh “Nhị hồ” ở gần Huế mà là một loại đàn Nhị 2 dây của Tàu. Đàn này xuất xứ từ "rợ Hồ" (mọi phương Bắc nước Tàu) có âm thanh ai oán (loại mất nước). Đàn Nhị Hồ đối với người Trung Hoa cũng giống như đàn cầm đối với người Tây phương.


“Cung Nguyệt Cầm” - Nghĩa đen là tiếng đàn Nguyệt. Đàn Nguyệt (From Chinese
月琴, literally "moon[-shaped] string instrument") là đàn cổ có h́nh tṛn, cũng của mấy chú Ba. Mấy em xẩm được vẽ trong tranh cổ của Tàu thường âu yếm ôm đàn này coi rất lăng moạng.


Cũng tương tự cá mè một lứa như “Nhị Hồ,” hai chữ "Cô Tô" này hoàn toàn không phải là đảo Cô Tô ở Quảng Ninh Bắc Việt mà là Cô Tô Thành (hay Cô Tô Đài) cứ điểm cuối cùng, trận đánh cuối cùng mà Câu Tiễn và Phạm Lăi đă đánh để dứt điểm vua Ngô Phù sai Ngô Phù Sai (chữ Hán:
吳夫差 trị v́ nước Ngô: 495-473 TCN) c̣n gọi là Ngô Vương Phù Sai (吳王夫差), tên thật là Cơ Phù Sai, là vị vua thứ 25 nước Ngô thời Đông Chu trong lịch sử Trung Quốc. Sau chiến thắng Cô Tô Thành này, Câu Tiễn th́ lấy lại ngôi vua, c̣n Phạm Lăi th́ lấy lại người đẹp Tây Thi. Đâu có cái quái ǵ ăn nhậu với lịch sử vẻ vang của dân Việt.


3- Bài "Ai về sông Tương" của Thông Đạt.


Phe ta nên biết là bản nhạc "Ai về sông Tương” là bài nhạc Việt được dân Việt ưa chuộng nhất hoàn cầu (căn cứ trên thống kê các lần yêu cầu bài hát này so với các bài hát khác trên tất cả các trang nhạc Việt online).


“..Ai có về bên bến sông Tương,
nhắn người duyên dáng tôi thương,
bao ngày ôm mối tơ vương...”


Sông Tương (tiếng Trung Hoa là:
湘江 hay "湘水", theo chữ viết loại Pinyin là: Xiāng Jiāng, Xiāng Shǔi; Wade-Giles: "hsiāng chiāng" hay "hsiāng shuǐ") này cũng là Tương Giang hay Tương Thuỷ hay sông là một con sông, chi lưu chính của sông Trường Giang, chảy qua tỉnh Hồ Nam, Trung Cộng lục địa. Sông này có diện tích lưu vực 94.600 km², tổng chiều dài 856 km, lưu lượng b́nh quân 72,2 tỷ m³ một năm. Tương Giang bắt nguồn từ huyện Lâm Quư của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Hoa và chảy vào Hồ Nam,


Dân Việt ăn nước mắm, khác với dân Tàu ăn x́-dầu (nước tương, tàu vị yểu), đâu có ai hưởn, dư tiền mà mua vé xe đ̣, xe lửa đi đến tận Sông Tương x́ dầu ở tỉnh Quảng Tây Trung Hoa để mà trả lời dùm ông cái Thông Đạt mơ ngủ ban ngày này?!


4- Bài "Thu hát cho người" của Vũ Đức Sao Biển:


Ông Sao Biển (tên thất là Vũ Hợi) có cái bút hiệu và tên tên cúng cơm cả hai nghe rất "Nôm" nhưng lại thích chơi điển tích Trung Hoa, thích chơi chữ "Hán" của "Đường Thi / Thôi Hộ."


Hăy nghe lời hát bài "Thu hát cho người":


“Gịng sông nào đưa người t́nh đi biền biệt.
Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa.
Hoàng hạc bay, bay măi bỏ trời mơ…”

Đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió.
Sáng linh lan hồn ta khóc bao giờ.



Hai chữ “Nguyệt cầm” tôi đă bàn ở trên qua bài hát “Hương xưa” của Cung tiến rồi, ở đây ông Sao Biển muốn dung hai chữ “Hoàng hạc” để ví von với một cảnh khác, cũng lại ở măi bên Tàu; Cho chính xác hơn, ông Sao quả tạ nhà ta muốn noái về "Hoàng hạc lầu" trong thơ Thôi Hộ đời Đường.


Hoàng Hạc Lâu


Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
...

Lầu Hoàng Hạc

Người xưa cưỡi hạc đă cao bay
Lầu hạc c̣n suông với chốn này
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)



*

Lời đón sau:


Tại sao văn chương thi nhạc Việt Nam cứ cần phải câu nệ vay mượn như vậy mới có cơ hội trở thành “bất hủ?”


Tôi cam đoan đất nước Tàu có cái ǵ th́ đất nước ḿnh cũng có cái đó không thua không kém th́ cần ǵ phải vay mượn khi ḿnh đă có đầy đủ… Thí dụ:


Về sông, tại sao cứ phải hát sông Dịch, sông Vị, sông Tương, sông Dương Tử… mà không dùng sông Bạch Đằng, sông Hồng, sông Cửu Long, sông Vàm Cỏ Đông, sông Cầu Ông Lănh…


Về núi, tại sao phải dùng sự to lớn hung vĩ để so với núi Thái sơn, Thái Hành, Thái Tỏi, Ngọa Long cương, Nga mi…. mà không xài núi Hoàng Liên sơn, Ba V́, Tam Điệp, Cẩm Thạch, Bà Đen, Thất Sơn.


Người đẹp th́ lại ca ngợi sắc đẹp Tây Thi, Đắc Kỷ, Dương Quư Phi… mà không dám ca ngợi Hai Bà Trưng, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân, Bùi Thị Xuân.




Cái tâm lư thích “hàng ngoại” truyền thống 4000 năm này, nhất là thích “hàng Tàu,” cần phải được dừng bước giang hồ ở đây… Nếu cứ tiếp tục thích hàng Tàu và để Tàu lấn chiếm đất biên giới phía Bắc dần dà như tằm ăn dâu, hàng ngày đe dọa cưỡng chiếm bỉển đảo ở phía Đông, và cho đám thợ Tàu, thương gia Tàu, mai phục ngay trong nội địa Việt Nam th́ chẳng mấy chốc nữa dân ta phải nói trực tiếp tiếng Tàu chứ chẳng phải vay mượn chi nữa chi cho toát mồ hôi… trán.


Quư vị có c̣n nhớ 2 câu thơ loại “núi liền núi, sông liền sông, chim liền chim, lồng liền lồng.…” từng bị hiểu lầm là do thi sĩ thượng đẳng “ass-kissing” vĩ đại Tố Hữu sáng tác (kể cũng hơi oan cho “ass-kisser” này)…


“… Bên kia biên giới là nhà
Bên ni biên giới cũng là quê hương….”
(Bài thơ “Cho uống thuốc” của Chế Lan Viên – 1954)


Thực ra, hai câu thơ “bất hủ” này do chính tay thơ nô Chế Lan Viên làm ra. Chế Lan Viên nghịch lư y như cái biện chứng cs. Xin nhắc lại, Chế Lan Viên là người đă phê b́nh, chỉ trích bài hát “Ḥn Vong Phu 1” của nhạc sĩ Lê Thương là có lời ca đă ca ngợi Mă Viện và câu chuyện “người vợ trông chồng hóa đá” của bài hát là một câu chuyện “phản động;” không thích hợp với biện chứng cộng sản. Bởi v́ dù rằng chồng mợ có đi vào Nam lạc đường ở Trường Sơn mất tích không biết đường về, hay là có lỡ bị quân VNCH cho sinh Bắc tử Nam hẳn ḥi rồi th́ vợ ở nhà vẫn phải “tuân thủ” 3-Đảm-Đang th́ mới là tiêu biểu “phụ nữ cách mạng.” Chứ c̣n trông chồng hóa đá th́ làm sao mà làm cách mạng được nè trời…


Vài lời thô thiển múa ŕu qua mắt thợ.


Trần Văn Giang

từ khaivo43@yahoo.com